Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

Nghi lễ cưới hỏi 3 miền : Bắc - Trung - Nam


Hôn lễ của dân tộc Việt có quy định chặt chẽ từ trước tới nay. Đám cưới mỗi miền Bắc, Trung, Nam có một nét đặc trưng riêng biệt, mang đậm phong tục, tập quán riêng của từng vùng.

Một đám cưới được tổ chức trên du thuyền POTOMAC

Lễ cưới miền Bắc
Nghi lễ cưới ở miền Bắc phải giữ 3 lễ:

Dạm ngõ: là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà trai và nhà gái, được xem là thủ tục cần thiết để "chỗ người lớn" thưa chuyện với nhau. Sau lễ dạm ngõ, người con gái được xem như có nơi có chốn, bước đầu tiến tới chuyện hôn nhân.

Lễ ăn hỏi: Gia đình dù giàu hay nghèo cũng không thể thiếu cơi trầu. Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội phải có cốm và hồng. Nếu gia đình khá giả, ngoài cốm, hồng và trầu cau còn có thêm lợn sữa quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của các vùng như: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá... Thông thường ăn hỏi gồm có 3 lễ: đàng nội, đàng ngoại, tại gia.

Lễ cưới: Sau khi ăn hỏi khoảng 10 ngày, lễ cưới được tổ chức. Ngày xưa, lễ rước dâu có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có, địa vị trong làng xã. Khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng dây, muốn đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước khi cưới 1 ngày.Ðám cưới bắt đầu bằng thiệp báo hỷ, khi đưa thiệp mời cưới phải đưa kèm theo chè và hạt sen (lấy từ lễ ăn hỏi). Ðến nay tục này vẫn còn được giữ lại.
Trong lễ đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên. Sau lễ thành hôn, hai vợ chồng trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên gọi là lễ lại mặt. Sau đó, bố mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà thông gia vì trong lễ cưới mẹ cô dâu không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau lễ cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ).

Chuyện động phòng của các chàng trai H'Mông


Khi những bông mai, bông mận nở trắng cành thì cũng là lúc thanh niên người Mông đi bắt vợ. Lấy chồng từ thủa còn "ăn chưa no, lo chưa tới", những cô gái người dân tộc "ngượng ngùng và lóng ngóng" về "làm ma" nhà chồng.

Nhiều cô gái làm mẹ ở tuổi còn rất trẻ.

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

TƯỢNG CÁT


sand1

sand2

MỜI CHIÊM NGƯỠNG NHỮNG VẦN THƠ VÀ TƯỢNG A-LA-HÁN QUÁ ĐẸP…

Cách đây không lâu, HT. Thích Giác Toàn đi Nhật Bản về đã cho Nhuận Thường một số hình chụp các tượng La Hán trông rất đẹp và sống động. Vì xúc cảm trước những tướng trạng của chư vị La Hán. Nhuận Thường xin mạo muội đề vài câu thơ cho thêm phần ý vị.

1
Ô kìa…La Hán hàng Long
Ra tay dũng mãnh nhưng lòng ..từ bi

VẼ TRANH TRÊN LÔNG GÀ


8

1

SÁNG TẠO KỲ DIỆU TỪ THỨC ĂN

Nhiếp ảnh gia Carl Warner đã tạo nên những bức ảnh phong cảnh tuyệt đẹp bằng chất liệu độc đáo: đủ loại thức ăn như hoa, quả, rau, bơ, bánh mì, cá, thịt… Sự sắp đặt khéo léo cộng với kỹ năng chụp ảnh đã mang đến những khung cảnh giống hệt như thực…

1
Đoàn tàu Express được làm từ chocolate.

3
Thế giới san hô lung linh: san hô được làm từ cây súp lơ, cá làm từ các loại quả và rau, đảo là những quả dứa.

Jules Verne: bậc tiên tri khoa học kỳ tài


Jules Gabriel Verne, thường được biết đến với tên Jules Verne (8/2/1828 - 24/3/1905), là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong thể loại văn học Khoa học viễn tưởng và được coi là một trong những "cha đẻ" của thể loại này.

Jules Verne (8/2/1828 - 24/3/1905)

Thời thơ ấu của những thiên tài vĩ đại


Họ là những người đã làm cả thế giới kính phục với tài năng, trí tuệ, sự uyên bác. Nhân dịp 1/6 chúng ta hãy nhìn về tuổi thơ của họ.
Tác giả của những phát minh vĩ đại, những đóng góp to lớn cho lịch sử nhân loại. Newton, Einstein, Napoleon được cả thế giới biết đến như những người hùng thực sự. Tuy nhiên đằng sau sự tài năng đó, họ ẩn chứa những tuổi thơ bình dị hay khác thường mà chúng ta rất đáng tìm hiểu.

Isaac Newton người đặt nền móng cho: cơ học, quang học, vật lý cổ điển

Một nhà bác học đại tài của nhân loại, người khai sinh học thuyết “Vạn vật hấp dẫn”. Ông cùng với Einstein chính là 2 tri thức lỗi lạc quyết định đến sự phát triển của lý thuyết vật lý hiện đại.
Isaac Newton
Issac Newton năm 46 tuổi

Những thiên tài không bằng cấp

Họ là những nhà khoa học, nhà văn, nhà chính trị lỗi lạc trong lịch sử nhân loại. Dù không có điều kiện để theo học bất cứ chương trình đào tạo chính quy nào, nhưng bằng niềm đam mê, sự ham học, và ý chí nỗ lực không mệt mỏi của bản thân, họ đã vươn lên và toả sáng như những vì tinh tú trên bầu trời lịch sử của nhân loại...
Frederick Douglass

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

Tượng Phật Quán Thế Âm bằng hoa đạt kỷ lục Châu Á

Tượng Phật Quán Thế Âm do các nghệ nhân hoa Đà Lạt cùng 500 thiện nam tín nữ chùa Linh Phước (thành phố Đà Lạt) thực hiện từ ngày 1 đến ngày 4/1/2010. Tượng có tổng chiều cao 15.5m, nặng 3 tấn, kết từ 650 ngàn bông hoa bất tử. Đặc biệt, đài sen của tượng Phật hoa có đường kính 5m cũng được kết hoàn toàn bằng hoa. Đây là một trong những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc trong dịp Lễ hội hoa tại Đà Lạt năm 2010. Hiện, tượng được đặt tại sân chính chùa Linh Phước để người dân và du khách đến chiêm bái.

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Gặp gỡ vua bình vôi ở Tây Đô



Anh Đoàn bên bộ sưu tập đồ cổ

    Trong nhóm người chơi cổ vật ở Tây Đô, anh Trần Quốc Đoàn, 50 tuổi ở phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn - TP. Cần Thơ là người được mệnh danh “Vua” bình vôi trên đất Tây Đô, vì anh đang sở hữu bộ sưu tập bình vôi cổ rất độc đáo. Trò chuyện với anh mới biết, “kho báu” cổ vật anh có được là nhờ vào cơ sở sản xuất tương chao gia truyền của gia đình. Anh Đoàn cho biết, anh chơi cổ vật cách đây 12 năm. Trong một lần tình cờ đọc được một tài liệu nói về cổ vật, nhất là tài liệu của nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển về những giá trị văn hóa của cổ vật nên rất mê. Từ đó, anh vừa sản xuất chao vừa lặn lội khắp vùng ĐBSCL để tìm mua cho bằng được những cổ vật xưa của người dân Nam Bộ. Anh cố công đi tìm từ chỗ những người bán ve chai lông vịt cho đến những cơ sở thu mua phế liệu những món đồ cổ, chủ yếu là bình vôi mà theo cách gọi linh thiêng của những cụ bà xưa là “Ông bình vôi”. Vì “Ông” có mặt hầu hết ở các gia đình người Việt cổ, không những “Ông” giữ cho vôi luôn được dẻo để giúp các cụ ăn trầu ngon miệng mà “Ông” còn là người chứng kiến bao thăng trầm của nhiều thế hệ gia chủ”. Bình vôi được sản xuất theo cấp bậc: gốm sứ xanh trắng, có hoa văn, họa tiết cầu kỳ dành cho chủ cả, bá hộ; loại trơn tru dành cho dân thường; loại màu xanh có nguồn gốc từ Trung Quốc dành cho quan lại, địa chủ, có cả những loại được làm bằng đồng thau.

Bình gốm Cây Mai hình chim dùng trang trí bàn thờ

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Núi Thái Sơn

Thái Sơn nằm ở vùng miền trung tỉnh Sơn Đông, vắt qua hai thành phố là Thái An và Tế Nam. Cuối năm 1987, Thái Sơn vinh dự được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.

%title
Có câu truyện truyền thuyết về núi Thái Sơn như sau: Theo người Trung Quốc, mọi vật trong trời đất đều là do một người gọi là Bàn Cổ tạo ra, sau khi Bàn Cổ qua đời, đầu, thân và tứ chi biến thành 5 ngọn núi lớn, đó tức là “ngũ nhạc” nổi tiếng ở Trung Quốc. Thái Sơn nằm ở phía đông chính là đầu của Bàn Cổ hóa thành, bởi vậy Thái Sơn được gọi là “đông nhạc” là đứng đầu trong “ngũ nhạc”.

'Mạng nhện' dưới lòng đất thép Củ Chi

Bằng cuốc, tay đào thủ công, quân dân Củ Chi (TP HCM) đã tạo nên hệ thống 3 tầng địa đạo dài hơn 250 km, sâu 10 m dưới lòng đất. Từ đây, quân giải phóng bất ngờ đánh phá địch, làm nên những chiến công lẫy lừng.
Từ năm 1948 đến 1968, từ căn cứ cách mạng cách trung tâm Sài Gòn 70 km về phía Tây Bắc, quân kháng chiến nhiều phen xuất quỷ nhập thần, gieo bao nỗi kinh hoàng cho kẻ địch.
* Khám phá địa đạo Củ Chi
* Cuộc sống thời chiến dưới địa đạo* Clip thăm địa đạo dưới lòng đất
Theo Ban Giám đốc Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi, công trình hệ thống ngầm này ghi dấu bao công sức, mồ hôi, máu và nước mắt của người dân vùng quê được mệnh danh đất thép.
Năm 1948, ở hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An đã bắt đầu xuất hiện những đoạn hầm ngắn, cấu trúc đơn giản dùng để cất giấu tài liệu, vũ khí, làm nơi trú cho lực lượng du kích hoạt động. Về sau, mô hình hầm được lan rộng trong nhiều xã. Đến năm 1965, năm xã phía Bắc Củ Chi đã hoàn thành địa đạo "xương sống".
Khi cuộc chiến chống Mỹ phát triển mạnh vào những năm 1966-1968, phong trào đào địa đạo ngày càng phát triển ở vùng đất này. Khắp nơi, trai gái, trẻ già nô nức tham gia kiến tạo đường hầm đánh giặc. Đến năm 1968, hệ thống địa đạo khoảng 250 km được hình thành.
Địa đạo Củ Chi là di tích lịch sử với hệ thống hầm dài 250 km dưới lòng đất. Ảnh: Kiên Cường

13 di tích được xếp hạng đặc biệt của quốc gia

Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà tù Côn Đảo, Cố đô Hoa Lư, Thành nhà Hồ... vừa trở thành di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm trong danh sách xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt lần này. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Ngày 10/5, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân ký quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 2) đối với 13 di tích. Các di tích này gồm: Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Kim Liên (Nghệ An); Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Mỹ Hòa Hưng (An Giang); Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình); Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội); Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương); Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa); Danh lam thắng cảnh Tràng An - Tam Cốc - Bích Động (Ninh Bình); Di tích lịch sử Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế (huyện Yên Thế, huyện Tân Yên, huyện Việt Yên và huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang ở Bắc Giang); Nhà tù Côn Đảo (Bà Rịa Vũng Tàu); Di tích lịch sử Pác Bó (Cao Bằng); Tân Trào (Tuyên Quang); An toàn khu (ATK) Định Hóa (Thái Nguyên); và Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (Tây Ninh).
Trước đó, năm 2009, Hoàng Thành Thăng Long (Hà Nội); khu di tích Phủ Chủ tịch (Hà Nội); Đền Hùng (Phú Thọ); Khu di tích chiến thắng Điện Biên Phủ (Điện Biên); Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình); Quần thể di tích Cố Đô Huế (Thừa Thiên - Huế); Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam); Đô thị cổ Hội An (Quảng Nam) và Dinh Độc Lập (TP HCM) được Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Bình Minh

Vẻ đẹp kỳ ảo ở hang động khô dài nhất châu Á

Dài 31 km, nơi rộng nhất khoảng 150 m, động Thiên Đường mới được phát hiện ở Quảng Bình mang vẻ huyền ảo khiến hàng trăm du khách trầm trồ.
Được phát hiện năm 2005 nhưng sau 5 năm khai thác, mở đường, phạt núi và xây dựng lối lên xuống, động Thiên Đường vừa được tập đoàn Trường Thịnh đưa vào hoạt động chiều 3/9.
Động cách thành phố Đồng Hới (Quảng Bình) khoảng 60km về phía Tây Bắc, nằm giữa rừng Phong Nha – Kẻ Bàng, thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch. Theo các chuyên gia, Thiên Đường còn đẹp và tráng lệ hơn cả Phong Nha và Tiên Sơn.

Với cặp song sinh cao tuổi nhất Việt Nam...

Việt Nam đạt 10 kỷ lục châu Á

Sáng 26.5, tại Hội ngộ kỷ lục gia toàn quốc lần thứ 22 ở TP.HCM, đại diện Tổ chức Kỷ lục châu Á chính thức công bố 10 kỷ lục Việt Nam đạt kỷ lục châu Á, gồm:

1. NGÔI CHÙA BẰNG ĐỒNG (TRÊN ĐỈNH NÚI) LỚN NHẤT: đó là chùa Đồng trên núi Yên Tử, cách mặt biển 1.068 m (thuộc TP.Uông Bí, Quảng Ninh), toàn bộ đúc bằng đồng nặng 70 tấn với 6.000 chi tiết, trong đó có 4 cây cột (mỗi cột nặng 1 tấn). Chuông và khánh đồng nặng hơn 250 kg, mỗi viên ngói nặng 4 kg.
 chùa Đồng
Ngôi chùa bằng đồng lớn nhất - Ảnh: Huỳnh Thanh Sang
2. HÀNH LANG 500 TƯỢNG LA HÁN DÀI NHẤT CHÂU Á: mỗi tượng nặng khoảng 2 - 2,5 tấn, cao từ 2 - 2,5 m. Tất cả đều tạc bằng đá nguyên khối, đặt trong 250 gian xây bằng10.000 m3 gỗ, thiết kế từ cổng tam quan của chùa Bái Đính (Ninh Bình) vào suốt hai dãy hành lang bên trong với tổng chiều dài khoảng hơn 3.400 m.
3. TƯỢNG PHẬT THÍCH CA BẰNG ĐỒNG DÁT VÀNG LỚN NHẤT: cao 10 m, nặng 100 tấn, tôn trí ở chánh điện của Điện thờ Pháp chủ chùa Bái Đính, được tạo hình trong tư thế tĩnh tọa.
4. TƯỢNG CHÚA KITÔ LỚN NHẤT: đặt trên đỉnh núi Tao Phùng (TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) ở độ cao 176m so với mực nước biển. Tượng cao 32 m, sải tay dài 18,4 m, hai bàn tay dài 2,2 m, ngón giữa dài 1,1 m, bề ngang bàn tay rộng 1,1 m.
5. CẬU BÉ MÙ CHƠI ĐƯỢC NHIỀU NHẠC CỤ NHẤT: đó là Bùi Ngọc Thịnh sinh năm 2000, sống với cha mẹ ở TX.Ninh Hòa (Khánh Hòa). Bị mù bẩm sinh nhưng em học chơi trống năm 6 tuổi, học đàn guitar năm 7 tuổi, học đàn organ năm 9 tuổi và đánh đàn nhị, đàn sến năm 11 tuổi. Hiện Thịnh tiếp tục luyện thêm đàn tranh và đàn kìm.
6. HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ NHÀ TÙ TRÊN ĐẢO LỚN NHẤT: do người Pháp xây từ năm 1862 tại Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), là nơi giam giữ những chiến sĩ đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam qua hai thời chống Pháp và chống Mỹ. Côn Đảo có hệ thống 8 trại giam chính, mỗi trại rộng từ 10.000 đến 25.000 m2, cùng hàng chục trại phụ. Chưa có nhà tù nào ở châu Á có nhiều khu kỷ luật như 20 hầm đá, 14 xà lim, 31 gian biệt lập chuồng bò, 120 chuồng cọp Pháp, 384 chuồng cọp Mỹ…
7. HANG ĐỘNG KHÔ DÀI NHẤT: động Thiên Đường ở Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (H.Bố Trạch, Quảng Bình) trên độ cao khoảng 360 m so với mực nước biển, không có sông ngầm chảy qua và thuộc hệ thống hang Vòm, với chiều dài lên tới 31,4 km, chiều cao từ sàn động đến trần động là 60 m, chiều rộng dao động từ 30 - 100 m, có nơi lên đến 150 m.
8. ĐỊA ĐẠO DÀI NHẤT: ra đời năm 1948 (thời chống Pháp) tại Củ Chi (TP.HCM), có tổng chiều dài trên 250 km đường hầm nằm sâu trong lòng đất với nhiều tầng hầm, ngõ ngách, đan chéo chằng chịt.
9 TƯỢNG PHẬT QUAN THẾ ÂM BẰNG HOA LỚN NHẤT: kết từ 500.000 bông hoa bất tử, cao 15,5 m, nặng 3 tấn, với đài sen đường kính 5 m, do các nghệ nhân hoa cùng 500 thiện nam tín nữ chùa Linh Phước (TP.Đà Lạt, Lâm Đồng) thực hiện vào đầu năm 2010.
10. SÁCH ĐỘC BẢN "THI VÂN YÊN TỬ" LỚN NHẤT: dày 300 trang, mỗi trang đều phủ lớp laminate bảo vệ, kích thước 125x80x16 cm, nặng 120 kg, với bìa sách bằng gỗ gụ, thực hiện từ tháng 4 đến 12.2011 tại Nha Trang. Nội dung gồm 143 bài thơ của GS-TS Hoàng Quang Thuận, 143 bài thơ (viết lại) bằng thư pháp chữ Việt, 143 ảnh minh họa.
Giao Hưởng

Những cây cầu kỷ lục của Việt Nam

Bên cạnh sức quyến rũ tuyệt đẹp từ tòa nhà Financial Bitexco, hay sức hút kỳ lạ từ kiến trúc bảo tàng Hà Nội được hoàn thành vào năm 2010, chúng ta sẽ ngỡ ngàng với những thành tựu xây dựng khác mà đất nước đã có được. Đặc biệt là những chiếc cầu kỷ lục tại Việt Nam thời gian qua.
Có những giá trị kiến trúc riêng, độc đáo, hiện đại và điểm nhấn quan trọng là một số công trình đã được thi công hoàn toàn bằng công nghệ và tài năng, trí tuệ người Việt. Đó là niềm tự hào lớn hơn cả giá trị vật chất mà công trình ấy đóng góp.
Một vòng quanh dải đất hình chữ S, chúng ta cùng điểm danh những nét đẹp "hoành tráng" từ những chiếc cầu kỷ lục ấy.
Cầu Sông Hàn
Điểm nổi bật trên bầu trời kiến trúc Việt Nam hiện đại. Được khánh thành và đưa vào hoạt động từ năm 2000, cây cầu này vẫn ngày ngày chuyển động như là biểu tượng của thành phố trẻ Đà Nẵng năng động.
 

Kỷ lục Việt Nam: Chiếc diều sáo có nhiều sáo nhất

Bộ sáo ầm gồm 13 sáo gắn vào phần tiếp giữa khung cái và khung quân trên của diều.
Đại Trà là một thôn thuộc xã Đông Phương, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Nơi đây, từ thế kỷ 13 ông Trần Quốc Thi – Thành hoàng làng Đại Trà – là người khai sinh, lập ấp khởi xướng việc làm sáo diều.
Kỷ lục Việt Nam: Chiếc diều sáo có nhiều sáo nhất
Tiếp nối truyền thống làng nghề, từ ngày 8/7 đến 15/10/2011, ông Nguyễn Văn Lộc và Hội làng nghề thôn Đại Xá, xã Đông Phương, huyện Kiến Thụy thực hiện làm một chiếc diều sáo. Giữa thân diều là hai khung cái bằng gỗ buộc úp lại với nhau dài 440cm, hai bên phất diều có chiều dài sải cánh 680cm ; bẹn diều dài 170cm, rộng (cả hai bên) 160cm…
Bộ sáo ầm gồm 13 sáo gắn vào phần tiếp giữa khung cái và khung quân trên của diều. 13 sáo, từ sáo lớn nhất dài 150cm, đường kính 17cm đến sáo nhỏ nhất dài 7cm, đường kính 1,3cm. làm bằng các chất liệu mai rừng, nứa ngộ, nứa tép, tre bờ già, gỗ xoan, gỗ mít… Muốn thả chiếc diều này dùng dây cước đường kính 3,5cm và cần đến 20 người. Diều có thể bay ở độ cao trên 100m. Diều đã được người dân thả bay cao vào ngày 2.10 ÂL (24-10-2011).
Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận đây là kỷ lục Việt Nam 20g ngày 5 tháng 11 năm 2011.
Theo BDVN
Nguồn : vietgiaitri.com

Nguyên tắc Cúng, Khấn, Vái, và Lạy


I. Nghi-Thức Cúng Gia-Tiên

Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.

Bộ tem chính thức đầu tiên mang quốc hiệu "Việt Nam"


Bộ tem chính thức đầu tiên mang quốc hiệu "Việt Nam" do Bưu điện Việt Nam phát hành vào ngày 02-9-1946, nhân kỷ niệm lần thứ nhất Cách mạng tháng Tám (19-8-1945) và ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02-9-1945), theo sắc lệnh số 172/SL ngày 27-8-1946 của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tranh thờ Ngũ Hổ


Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, hổ là con vật có sức mạnh thiêng liêng diệt trừ được ma quỷ. Đã từ lâu, hổ được tôn thờ và danh xưng của hổ cũng được thần thánh hóa là Ngài, là “Ông Ba mươi” đầy uy linh, quyền kính. Hổ được dựng thành biểu tượng qua nhiều chất liệu của tạo hình: gỗ, đá, vôi giấy, đất nung, tranh vẽ, tranh cắt giấy... có ở hầu khắp các công trình: đền, miếu, đình, lăng mộ… Nhưng mẫu tranh được biết đến nhất qua nhiều thế hệ đó là tranh Ngũ Hổ của phố Hàng Trống (Hà Nội) ngày xưa. Không chỉ là một tác phẩm hội họa, tranh Ngũ Hổ còn ẩn chứa nhiều thông điệp của nền văn hóa cổ phương Đông.

Không bày trên bàn thờ gia tiên như những bức tranh ngũ quả, tranh Ngũ Hổ thường treo ở bàn thờ dành riêng cho “Ông Ba mươi”, dưới ban thờ thần thánh hoặc thờ Phật. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, tục thờ hổ bắt nguồn từ một cuộc sống nguyên thủy, khi con người còn sống trong điều kiện săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp, hổ chính là sức mạnh thiên nhiên gần gũi và là tai họa đối với con người. Do đó, con người thờ hổ.




Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Kiến trúc - mỹ thuật trong các ngôi chùa Khmer

    Xuôi về Đồng bằng sông Cửu Long trù phú với đồng quê, sông nước, miệt vườn, khách bị cuốn hút bởi những ngôi chùa Khmer cổ kính thấp thoáng trong vườn cây cổ thụ bao quanh.

    Hệ thống chùa Khmer ở ĐBSCL khá dày đặc, nhất là ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng… Có những ngôi chùa được xây dựng từ trước thế kỷ XVI nhưng cũng có ngôi chùa mới xây dựng hoặc đại trùng tu trong thế kỷ XIX, XX. Tuy có sự khác nhau khá xa về niên đại nhưng vẫn có những đặc trưng chung: đó là sự đồ sộ, uy nghi với nét đặc thù rất tiêu biểu cho kiến trúc Khmer truyền thống.


Chùa Seray Kadal (1694) còn nhiều kiến trúc gỗ

Gìn giữ vẻ đẹp kiến trúc Pháp ở Hà Nội

    Vẻ đẹp của kiến trúc Hà Nội không chỉ dừng lại ở những công trình truyền thống thời cổ - trung đại mà còn ở các khu phố xây dựng trong khoảng thế kỷ XIX-XX tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc Việt Nam thời kỳ cận đại.
 

Bắc Bộ Phủ


Nhà thờ lớn

LỊCH SỬ NAM ĐỊNH

Nam Định thời tiền sử
Cùng với quá trình biển lùi, các con sông chảy trên vùng đất cổ Nam Định chuyên chở phù sa từ thượng nguồn về lấp đầy các vụng biển. Vùng đồng bằng châu thổ dần hình thành, con người nguyên thuỷ cũng từ rừng sâu núi cao tiến xuống khai phá đồng bằng. Họ phá rừng lập làng trên những doi đất cao ở ven các triền sông. Nghề trồng lúa nước cũng ra đời từ đó.
Trên đất Nam Định, dấu tích con người ở thời kỳ này còn lưu lại ở các dãy núi thuộc huyện Vụ Bản và huyện Ý Yên nằm về phía tây bắc của tỉnh. Tại đây đã tìm thấy những chiếc rìu đá có vai mài lưỡi, các hòn nghè, chày đá và bàn nghiền. Đó là những dấu tích của những cư dân thuộc thời kỳ  đồ đá mới hoặc sơ kỳ đồ đồng đã từ vùng rừng núi tiến xuống khai phá vùng đồng bằng ven biển để sinh sống và dần dần tiến tới lập các làng xóm. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ đồ đá, ở tỉnh Nam Định cũng như nhiều địa điểm khác trên đất nước, đã nở rộ những nền văn hoá nguyên thuỷ. Ngoài kinh tế hái lượm những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên, người nguyên thuỷ trên đất Nam Định đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Gốm Phù Lãng – vẻ đẹp toát lên từ hồn đất





Là một trong ba trung tâm gốm cổ nổi tiếng còn duy trì và phát triển ở Việt Nam, gốm Phù Lãng được biết đến với những sản phẩm chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ, tinh túy và hồn dân tộc từ đất và lửa. Nét độc đáo của các sản phẩm gốm Phù Lãng không chỉ là màu men da lươn mộc mạc, khỏe khoắn, đậm nét điêu khắc của tạo hình đã được các nghệ nhân gìn giữ từ bao đời mà còn là những kỹ thuật đắp nổi hiện đại, mẫu mã đa dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng “khó tính” của khách hàng.

Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, nằm bên cạnh con sông Cầu thơ mộng. Về thăm làng gốm Phù Lãng vào một ngày đầu xuân, chúng tôi được sống trong không khí lao động khẩn trương, hăng say của các nghệ nhân.

Nguyên liệu làm gốm truyền thống Phù Lãng là đất đỏ hồng lấy từ Bắc Giang, cách đó khoảng 20km. Một miếng đất trước khi chuốt phải nề, xéo hàng chục lần mới thành khoanh cho lên bàn xoay nắn thành sản phẩm.
Một nghệ nhân của cơ sở sản xuất gốm nghệ thuật Bảy Xá


Dưới bàn tay của người thợ, đất sét được luyện thật nhuyễn, đảm bảo độ dẻo, mịn nhất định và được tạo hình trên bàn xoay bằng tay hoặc khuôn.
Bức "Làng quê Việt Nam"
Kỹ thuật đắp nổi hiện đại được các nghệ nhân Phù Lãng đưa vào ứng dụng nhằm tạo ra sự đa dạng về mẫu mã.


Sau khi sản phẩm đã thành hình và để khô, chúng được điểm tô trên thân mình loại men đặc biệt và  những sắc màu đậm hồn dân tộc.
Ở Phù Lãng người ta vẫn sử dụng phương pháp truyền thống - dùng củi để nung ở nhiệt độ 1000 độ C, nhờ sự biến nhiệt khác nhau tạo ra những vết táp trên bề mặt gốm mà không phương pháp nào có thể thay thế nổi



Đặc trưng của Phù Lãng là gốm được tận dụng triệt để trong cách bài trí nội thất, ngoại thất. Những bức tường cũng trở nên có hồn hơn…
Có một dự án du lịch làng nghề sắp đươc diễn ra với sự tham gia của một số kiến trúc sư người Pháp. Làng gốm truyền thống của Phù Lãng đang chuyển mình theo một hướng mới….
HÀ ANH

NGÔI CHÙA CỔ VÙNG KINH BẮC

CHÙA BÚT THÁP

LỪNG DANH KINH BẮC

Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đượm màu nước non.
(Ca dao)
Ở miền đồng bằng Bắc bộ, dân gian có câu nói truyền tụng : “cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”, Nam là Sơn Nam (Nam Hà, Thái Bình, Hải Hưng, nơi có nhiều cầu đá), Bắc phía Kinh Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang, nổi tiếng với những chùa cổ, tiếng hát quan họ), Đoài ở hướng Tây (Hà Tây, Sơn Tây, rất hãnh diện với những đình làng lớn đẹp như đình Tây Đằng, đình Chu Quyến).
Ninh Phúc Tự là một trong các chùa cổ ấy nằm trên bờ sông Đuống hiền hòa cách Hà Nội khoảng 25km, còn được gọi chùa Nhạn Tháp vì thỉnh thoảng có những con chim nhạn bay về đậu trên đỉnh các tháp. Chùa tọa lạc ở xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, được vua Tự Đức đặt tên chùa Bút Tháp vì tháp Báo Nghiêm trông tựa cây bút lông. Chùa nằm trong vùng Siêu Loại (tên quê hương Nguyên phi Ỷ Lan) có thành cổ Luy Lâu, làng tranh dân dã Đông Hồ, đền thờ Kinh Dương Vương, đền thờ Lạc Long Quân – Âu Cơ, nơi phát tích đạo Phật với những chùa Phật Tích, chùa Keo, chùa Dâu tức Cổ Châu Tự.
Theo truyền thuyết, chùa Bút Tháp được xây dựng từ thế kỷ 13, dưới đời vua Trần Thánh Tông, nhưng như nhiều chùa chiền xưa ở nuớc ta, vật liệu xây dựng là tre, gỗ nên khó chịu đựng được sức tàn phá của thời gian, dễ bị hủy hoại.
Vị tu sĩ trù trì đầu tiên ở chùa là Thiền sư Huyền Quang (1254-1334), quê gốc làng Văn Ty, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Dưới đời vua Trần Thái Tông, tưong truyền có bà mẹ họ Lê nhân nằm mộng thấy một con khỉ đội mũ vuông, mặc áo vàng, phóng vào bụng bà một mặt trời đỏ, từ đó thụ thai mà sinh ra Thiền sư. Thi đỗ Trạng nguyên năm 20 tuổi, bổ làm quan Viện Hàn lâm, có tài ứng đối, thông thạo kinh nghĩa, không có ý sắc dục. Ngài xuất gia năm 51 tuổi. Ngài là vị tổ thứ ba dòng Lâm tế, có cho xây một ngôi tháp chín tầng, trang trí hoa sen, loại cối xay cầu nguyện, ngày nay là Tòa Cửu Phẩm. 
Qua thế kỷ 17, Hòa thượng Chuyết Công, quê gốc Phúc Kiến, có công xây dựng làm chùa nổi tiếng, sau khi viên tịch được vua Lê phong Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư. Kế nghiệp là vị đồ đệ xuất sắc Thiền sư Minh Hành (1644) quê gốc Giang Tây. Cuộc điều khiển xây dựng của hai vị giải thích ảnh huởng Trung Quốc trong kiến trúc chùa. Vào lúc nầy, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc tức Diệu Viên và con gái Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên tức Diệu Tuệ được chúa Trịnh cho phép bỏ công sức thiết lập quy mô kiến trúc căn bản cho ngôi chùa. Qua đầu thế kỷ 18, chùa được các quan viên họ Lê như Luân Quận công, Dĩnh Quận công, Thế Thái Hầu, Ninh Lộc Hầu,… cùng với Nhu Thuận quận chúa họ Trịnh bỏ tiền mua sắm gỗ gạch tu bổ, lại thêm được dân làng mời thợ sửa sang cho khang trang hơn.
Sang thế kỷ 20, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Trọng Phu thấy chùa hoang vắng liền thu tập tiền của trùng tu sửa chữa. Nói chung, từ thế kỷ 17 đến nay, chùa đã được trùng tu non mười lần, lần cuối cùng những năm 1990-1993, chùa được tạo dựng hoàn toàn, hiến cho ta ngày nay một kiệt tác nghệ thuật kiến trúc khá nguyên vẹn, chứa đựng một số chứng tích, di vật điêu khắc độc đáo, hiếm có niên đại nhiều thế kỷ.
Kiệt tác nghệ thuật nầy được thực hiện một phần lớn, như đã thấy, là nhờ công lao của hai mẹ con Hoàng thái hậu Ngọc Trúc và Công chúa Ngọc Duyên. Năm 1619, chúa Trịnh Tùng bắt vua Lê Kính Tông tự tử rồi lập Hoàng tử Duy Kỳ lên ngôi, lấy hìệu Lê Thần Tông. Người thông minh, học rộng, nhà vua còn bị Trịnh Tùng ép lấy con gái mình là Ngọc Trúc đã có chồng là Lê Trụ bị xử trảm và bốn con. Làm vua đến 1643, Lê Thần Tông nhường ngôi lại cho con là Thái tử Duy Hữu tức Lê Chân Tông rồi đưa Ngọc Trúc về Thanh Hóa xây dựng chùa Mật, nay đã hoàn toàn bị phá. Bên phần Hoàng thái hậu, số phận long đong, cũng muốn nương nhờ cửa Phật, bèn cùng các thân nữ lại chùa Phật tích nghe Thiền sư Chuyết Chuyết giảng kinh. Từ đấy, bà xin vua cha cho phép trùng tu chùa Bút Tháp đang đổ nát để sau nầy chính thức xuất gia. Công chúa Ngọc Duyên tình nguyện cúng các ruộng lúa làm chi phí. Khi chùa hoàn thành, Thiền sư dời sang trù trì, Hoàng thái hậu cùng các con gái, các hoàng thân ở cung vua phủ chúa cũng kéo nhau về đó. Năm 1644, khi Thiền sư Chuyết Chuyết viên tịch, Thiến sư Minh Hạnh đến nay trù trì chùa Phật Tích và đã nhiều lần được gởi qua Trung Quốc thỉnh kinh, sang Bút Tháp kế nhiệm.
Trong số các kiểu chữ tam, chữ đinh, chữ công định nghĩa theo hình thức, kiểu nội công ngoại quốc đã được chọn : bên ngoài hình chữ khẩu hay chữ quốc bao quanh bảy tòa nối liền Tiền đường đàng trước với Hậu đường (hay Nhà Hậu, thờ Thánh Tam tòa, Tứ phủ, các sư tổ) phía sau ; giữa hai tòa ầy nối tiếp nhau qua những khoảng trống lộ thiên, từ ngoài vào là Tiền đường, Thiêu Hương, Thượng đìện, Tích Thiện Am (hay Tòa Cửu Phẩm), Nhà Trung, Phủ Thờ. Nếu Tiền đường, Thiêu Hương Thượng đìện dính với nhau, sắp thành chữ công, hai Nhà Trung Phủ Thờ tách rời riêng biệt, còn Thượng đìện Tích Thiện Am được nối nhau qua một cây cầu đá. Hai bên những tòa nhà nầy là hai hành lang 26 gian dài hơn 100m chạy suốt dọc chùa. Ngoài tổng thể nầy, toàn bộ hướng về phía nam, hướng của trí tuệ, bát nhã, trước chùa có Tam Quan trống rỗng, bỏ ngỏ tỏ rõ tấm lòng từ bi đức Phật luôn mở rộng đón nhận tất cả kiếp người và Gác chuông hai tầng tám mái khá cao, tầng trên lát gỗ lim đen bóng, ở giữa quả chuông đồ sộ đời Gia Long thứ 14 (1815) ; hai bên có hai nhà bia (1647 : Xây dựng chùa Ninh Phúc ; 1674 : Cúng ruộng cho Tam bảo chùa Ninh Phúc) ; sau có các Tháp Tôn Đức, Ni Chân, Tâm Hoa ; hai bên hông có Tháp Bảo Nghiêm, Nhà tổ và những Tháp mộ các thiền sư.
Trong số các tượng hình trong chùa Bút Tháp, có tiếng nhất là pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn tức Quan Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay, kiệt tác của nền điêu khắc Việt Nam. Cao 370cm, đường kính vành tay 224cm, tượng được đặt trong Thượng điện cùng với những tượng Tam Thế, các vị Bồ Tát như Thích Ca Tuyết Sơn, Văn Thù, Phổ Hiền,… và hai dãy 18 vị La Hán sát tường hai bên. Dưới bệ tượng có ghi tên người khắc là một ông họ Trương, sau mười năm nghiền ngẫm, làm xong mùa thu năm Bính Thân (1656) nghĩa là tác phẩm thuộc về loại sớm nhất trong nghệ thuật điêu khắc Phật giáo ở nước ta.
Hóa thân Quan Âm của đức Avalokitesvara hàm nghĩa là nghe tiếng kêu than của chúng sinh để đến cứu độ. Tay tượng gồm có 42 tay lớn không cầm pháp khí (kim cương, chử, vòng, chuổi hạt, hạt châu,…) như thường lệ, 958 tay nhỏ tạo thành 7 vòng tay. Các cánh tay nhịp điệu khác nhau, trong lòng mỗi bàn tay mang một con mắt, kết thành một vầng hào quang quanh đầu, trên có hình Diệu âm điểu Kalavinka tượng trưng cho Phật pháp vĩnh cữu.
Tích Phật kể Ngài lo nghĩ nhiều cho đời nên đầu vỡ thành nhiều mảnh, Phật A Di Đà cảm thông đã dùng phép thuật vô biên biến hóa mỗi mảnh thành một bộ mặt để tăng thêm pháp lực cứu độ chúng sinh. Vì vậy, xếp thành 4 tầng, Ngài có 11 bộ mặt tượng trưng cho những đức tính cần thiết trước để đức Bồ Tát, sau để giúp chúng sinh đạt đến giác ngộ. Đức Quan Âm ngồi thiền định, bàn chân mặt ngửa trên đùi trái theo thế bán kiết già, trên một tòa sen Rồng đội. Con rồng nầy là hóa thân của Long Vương Upananda, thêm vào những sinh vật ngao, ốc, cua, hến,…lặn lội giữa những lớp sóng động của Thủy cung, hàm ý Phật pháp thuấn nhuần thế gian.
Trong Thượng điện, đức Quan Âm còn có mặt qua ba pho tượng Quan Âm Tọa Sơn, hai pho bằng gỗ thế kỷ 17-18, một pho bằng đất thế kỷ 19-20, cao 140cm, khuôn mặt thanh tú. Trong các pho nầy, Ngài ngồi chân mặt gập, bàn chân dẫm xuống đất, đầu gối cao ngang ngực, chân trái ngả nằm trên mặt bệ, theo kiểu Thanh nhàn đế vương Maharaja lilasana. Tượng Tuyết Sơn cao toàn bộ 222cm, còn gọi Tây Thiên Đông đô lịch đại tổ, trình bày chân dung Thái tử Thích Đạt Đa khi đi tu ép xác ở núi tuyết, cơ thể, mặt mày rõ ràng đau khổ.
Trong Phật điện Việt Nam, thường có hai thị giả được thờ hai bên đức Phật Thích Ca, hai hình tượng được xem là sớm nhất trong ngành điêu khắc Phật giáo Việt Nam là hai pho Văn Thù và Phổ Hiền. Văn Thù Sư Lợi tức Manjushri, cao 125cm, dịu hiền, sắp bên mặt, là vị Bồ Tát của trí năng, người chiến thắng bóng tối và ngu dốt. Tay cầm kiếm Kim Cương đoạn diệt mê hoặc, Ngài ngồi trên lưng sư tử mà sức mạnh là biểu tượng cuộc tồn sinh và năng lực phát sinh nên Ngài cũng là vị Bồ Tát của sự giác ngộ. Phổ Hiền Bồ Tát tức Samanthadra, cao 180cm, sắp bên trái, được xem là vị Bồ Tát hộ vệ những ai tuyên giảng đạo pháp. Ngồi trên voi trắng sáu ngà, voi trắng tượng trưng cho trí tuệ vượt chướng ngại, sáu ngà cho sự chiến thắng sáu giác quan, Ngài được kê trong Phật Đài Nhật Bản, cũng là một trong bốn Đại Bồ Tát Trung Quốc. Trú xứ của Ngài là núi Nga Mi, nơi Ngài lưu trú sau khi cỡi voi trắng từ Ấn Độ sang Trung Quốc.
Chùa không quên ơn các vị đã bỏ công của ra trùng tu chùa nên trong Phủ Thờ có tượng của Hoàng Thái Hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (1595-1660) tức Chúa bà Kim Cương, tượng hai Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (1615-1664), Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ và tượng Thái Tử Lê Đinh Tứ. Khi xây chùa Mật, vua Lê Thần Tông có cho tạc chân dung mình và sáu bà hoàng. Hiện nay tượng vua và năm hoàng phi được đặt tại Thái miếu nhà Lê ở Thanh Hóa. Ở chùa Bút Tháp, các chân dung chịu ảnh hưởng của các tượng chùa Mật, có lẽ vì được cùng các nghệ nhân tạc khắc, tuy không sâu sắc bằng. Vẻ mặt cao quý, tượng các bà hoàng được đặt trong các khám thờ trang trọng.
Ở giữa, tượng bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Trúc, cao 95cm, không còn giữ y phục vương triều mà được khoác áo tu hành giản dị. Khuôn mặt cương nghị, đôi mắt mở to tỏ ra một người đã từng sống và đã từng trải qua những cơn đau khổ. Hai bên tượng hai Công chúa Ngọc Duyên và Quận chúa Ngọc Cơ, cao 120cm, đội mũ phượng, xiêm y có chạm hoa văn, cách tạo hình trang trọng và rực rỡ như chân dung ở chùa Mật. Còn pho tượng nam giới là Thái Tử Lê Đinh Tứ cao 170cm. Trong Nhà tổ, có hai tượng Thiền sư Chuyết Chuyết (1590-1644) tức Chuyết Công, cao 95cm và Thiền sư Minh Hành (1595-1659) pháp hiệu Tại Tại, có mặt vuông vức, mũi gồ. Rải rác ở Thượng điệnHậu đường còn có một số loạt tượng chân dung hoàng thân, sư tổ, khó xác định tên tuổi từng người. Vua Trần Nhân Tông, thuở ban đầu chùa Bút Tháp, đã có gởi lòng thủ phận trong một bài thơ thiền bằng chữ Hán. Dịch : (trích sách của Phan Cẩm Thượng)
Ai trói mà tìm phương giải thoát
Không phàm hà tất kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người già yếu
Vẫn trước am mây với sập thiền.
Phải trái trôi theo hoa rụng sớm
Danh lợi lạnh lòng trận mưa đêm
Hoa tàn, mưa lạnh, núi non lặng
Cuối xuân sót lại một tiếng chim.
Tòa Tích Thiện Am, như tên gọi có nghĩa chứa điều lành, xây từ năm Tân Dậu 1681 đến năm Tân Mùi 1691 như thấy ghi trong tấm bia, còn được gọi Cửu phẩm liên hoa vì giữa tòa có đặt một cối kinh bát giác cao 7,8m, bằng gỗ 9 tầng, thể hiện 9 kiếp tu của đức Thích Ca. Tháp mang ý nghĩa cửu phẩm vãng sinh về thế giới cực lạc của đức Phật A Di Đà. Theo nghi thức Phật pháp Mật tông nguồn gốc Tây Tạng, tháp quay có mục đích nhân lời tụng lên nhiều lần (3.542.400 lần khi quay một vòng tháp !), từ đó con người càng chóng chứng quả Phật pháp hơn. Bên cạnh nhiều pho tượng Phật và các vị Bồ Tát, tám mặt của tháp có chạm những bức phù điêu liên quan đến tích nhà Phật, khuyến thiện trừ ác, hành trang các vị tổ, đại sư.
Tầng một : Hoa tàng thế giới, Sa bà thế giới. Tầng hai : Anan kết tập, Di Đà thuyết pháp. Tầng ba : Tín thụ tác lễ, Cực lạc thế giới. Tầng bốn : Thiền sư, Lục tổ. Tầng năm – tầng tám : 8 vị Phật, tổng cộng 32 vị. Tầng chín : 4 tượng Di Đà và hai hàng chữ : Cửu phẩm liên hoa, A Di Dà Phật. Đục chạm tinh xảo, sắp xếp hoàn hảo người vật, cây Cửu phẩm chùa Bút Tháp là một trong ba cây ở Việt Nam, đều nằm trong địa bàn phát triển của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Tòa Tích Thiện Am nối liền với Thượng điện qua một cầu vồng đá cong bắc ngang qua hai hồ sen mang tên Bích Da. Được hai con sư tử bảo vệ ở phía đầu, cầu dài 4m, gồm 3 nhịp uống cong, mặt cầu lát đá xanh, trên lan can có 12 bức chạm khắc đá, nối tiếp 26 bức trên lan can tòa Thượng điện. Cao 14cm, rộng 130cm, những bức nầy được phân bố cân đối, hợp lý, chạm khắc công phu, tinh xảo, trang trí nhiều đề tài giới hạn trong lĩnh vực chim (cò, phượng, hạc, vẹt), thú (ngựa, thỏ, dê, hươu, cá, khỉ, rồng, kỳ lân, tê giác, sư tử), cây (tùng, mai), hoa (cúc, sen, lan, hướng dương, phù dung, loa kèn) và thiên nhiên (mặt trăng, mặt trời) trong những hoạt cảnh truyền thống (phượng múa kỳ lân, đôi cá vờn trăng, sư tử vờn cầu, đôi lân quyết đấu, năm rồng gặp biển, năm ngựa cùng phi,…). Trong một nơi nghiêm chỉnh, những bức chạm khắc đá nầy là những hình ảnh vui tươi, sống động quen thuộc trong dân gian. Những cây hoa được chọn trong số những loài tượng trưng cho tính cách tốt đẹp của con người : mai (sự trong trắng), lan (sự cao quý), tùng (khí phách người quân tử),…Những con vật huyền thoại được trình bày trong một trạng thái hư thực nhưng phản ảnh đời sống : rồng chầu mặt trời (thăng hoa tột đĩnh), phượng múa bên hoa phù dung (tài tử giai nhân trong thiên hạ),… Những bức chạm khắc đá nầy lẫn lộn khô khan, giáo điều với ngẫu nhiên, hứng thú, khi rõ ràng, khi khó hiểu, nhưng thực hiện khéo léo, tinh vi, vừa làm vừa lòng những bậc tôn giả, vừa gây vui thích đám dân quê mộc mạc.
Sau cùng, bàn đến chùa Bút Tháp không thể quên tháp Báo Nghiêm. Đây là nơi thờ Thiền sư Chuyết Chuyết, người có công lớn xây dựng chùa. Tháp đá cao 13m, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh ; ngoài tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần giống nhau, rộng 2m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,30m. Hai vòng tường cột và lan can bao quanh phần bệ tượng. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc. Tháp có 23 bức chạm đá lấy các cây hoa và chim thú làm đề tài chủ yếu như những bức ở Thượng điệnCầu đá : 8 bức ở chân lan can, 8 bức ở tầng một chân tháp, 7 bức ở tầng hai tháp. Ta gặp lại những chim (cò, hạc, phượng), thú (hổ, rồng, hươu, ngựa, dê, cua, cá, kỳ lân, sư tử), hoa (sen, hướng dương, phù dung). Ở đây, ngoài vài hoạt cảnh đã thấy ở trên (hạc múa kỳ lân, sư tử vờn cầu,…) có vài màn mới (dê núi dưới trăng), đặc biệt có mặt con người (người quỳ nâng tháp, vị quan và con hạc). Nói chung tất cả các bức chạm khẳc đá đều thống nhất với nhau về mặt chất liệu, phong cách, từ đấy niên đại. Hình ảnh sống động, chan hòa tính chất nghệ thuật thiên nhiên, giúp thêm ý nghĩa đạo Phật.
Được bộ Văn hoá xếp hạng Di tích Quốc gia từ tháng tư 1962, Bút Tháp là một ngôi chùa cổ có quy mô kiến trúc lớn của đồng bằng Bắc bộ còn đuợc bảo tồn khá nguyên vẹn đến ngày nay. Chùa có kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa với môi trường thiên nhiên. Những pho tượng chân dung hoàn chỉnh nhất được xem là khuôn mẫu tạo hình cho những giai đoạn sau. Có vài yếu tố mang đậm dấu ấn Trung Quốc trong kiến trúc đã được kết hợp một cách hài hòa với các yếu tố văn hóa truyền thống của Việt Nam. Cho đến ngày nay, chùa Bút Tháp vẫn giữ trong mình những giá trị đặc sắc được tích tụ trong mỗi quá trình tồn tại của mình. Hằng năm, mỗi dịp xuân về, hội chùa Bút Tháp lại được diễn ra trong niềm vui náo nức và lòng sùng kính của khách hành hương. Đến với lễ hội, tăng ni phật tử cùng du khách thập phương không chỉ được chiêm ngưỡng những pho tượng cổ nổi tiếng mà còn được hòa mình vào không gian văn hóa đặc sắc của lễ hội vùng quê bên bờ nam sông Đuống với trò chơi đánh đu, đấu vật, chọi gả, thả chim, ca hát quan họ, diễn chèo… Không chỉ vào dịp lễ hội, chốn danh lam cổ tự Bút Tháp còn là điểm đến thường xuyên của đông đảo du khách gần xa. Đồng thời đang trở nên một trung tâm du lịch, chùa còn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử văn hóa của vùng quê văn hiến Kinh Bắc – Bắc Ninh.
Mừng Phật Đản 2556 (2012)
Huỳnh Mỹ Nhàn (theo bài và ảnh Võ Quang Yến)