Như giải thích trong kinh Dịch và kinh Thư, năm loại vật chất ấy
vận động, phát triển theo hướng "tương sinh" và “ tương khắc", đồng
thời biểu thị quy luật sinh thành/vận động của toàn vũ trụ, thế giới và
cả trong cuộc sinh tồn của nhân loại. Rồi từ Trung Quốc, lần hồi thuyết
Ngũ Hành được tín ngưỡng hóa, thành sự thờ phượng “vạn vật linh thiêng”
rất phổ biến trong nhiều dân tộc Á Đông cho đến ngày nay.
“NĂM CHẤT” ĐƯỢC TÍN NGƯỠNG THỜ “MẪU” BIẾN THÀNH “NĂM BÀ”
Tiếp
nhận thuyết Ngũ Hành từ phương Bắc, rồi hòa quyện vào tín ngưỡng dân
gian đã có trước, người Việt cổ đã đưa thuyết này vào thờ phượng với
những nhận định thực tiễn, giản dị. Chẳng hạn như ở vùng nóng bức quanh
năm, thường xảy ra hoả hoạn, thì hành Hỏa được lập miếu thờ; vùng duyên
hải, sông rạch thì thờ Thủy thần; vùng rừng núi thì thờ Bà Chúa Thượng
Ngàn; vùng trồng lúa, trồng màu thì thờ Thổ thần v.v… Mặt khác, tại nước
Việt xưa, so với các tục thờ Thổ Địa, Tài Thần, Chúa Xứ Thánh mẫu.v.v…,
thì tục thờ Ngũ Hành Nương Nương - tức thờ Ngũ Hành (vật chất) như một
nhóm năm vị nữ thần – đã xuất hiện muộn hơn. Còn muộn hơn là mãi đến năm
Duy Tân thứ năm (tức năm 1911), triều đình nhà Nguyễn mới sắc phong
chung cho năm Bà là các “Đức Thánh Nương, Trứ Phong Dực Bảo Trung Hưng
Thượng Đẳng Thần", phân ra là: Thổ Đức Thánh Phi, Hoả Đức Thánh Phi, Kim
Đức Thánh Phi, Thủy Đức Thánh Phi và Mộc Đức Thánh Phi.
Nhưng tại sao biểu
tượng cho “năm chất tạo nên trời đất” lại là các nữ thần mà không phải
là nam thần? Theo cái nhìn sơ khai của các dân tộc trồng lúa nước, sống
phụ thuộc vào thiên nhiên - như người Việt cổ - thì giới
tự nhiên có tính “âm sinh”, bởi từ thời tiền sử, con người nhìn thấy
chuyện sinh đẻ ra con người, sinh ra các thú vật khác chỉ là từ người
đàn bà hay các con thú giống cái. Có thể nói kinh nghiệm thô thiển này
của con người bầy-đàn đã là
nguyên do có trước tiên trong số những nguyên do dẫn tới chế độ mẫu hệ
và tín ngưỡng thờ Mẫu - biểu tượng thần linh nghiêng về “Mẹ", “Mẹ Đất”.
Riêng ở nước Việt xưa, tín ngưỡng thờ Mẫu trong dân gian (các thánh mẫu,
bà chúa, như các đức Bà Thủy phủ, Thiên Phủ, Địa Phủ, Nhạc Phủ, Man
Nương, Bà Chúa Thượng Ngàn.v.v…) đã có từ trước khi Phật giáo truyền vào
đất Việt.
Đến
lượt năm vị nữ thần Ngũ Hành được tôn thờ thì dân gian tin rằng các Bà
có những quyền năng nhứt định đối với các nghề liên quan đến đất đai,
củi lửa, kim khí, nước nôi và cây gỗ, tức đây là nhóm thần linh có thể
phù hộ cho đám nông dân, ngư dân, thợ thủ công…, nói chung là hầu hết
tầng lớp thứ dân trong xã hội cổ xưa.
Trước
kia, Ngũ Hành Nương Nương thường được thờ trong những am, miếu, điện…,
phổ biến nhứt là các ngôi miếu lớn, nhỏ mà người dân quen gọi ngắn gọn
là “miếu Ngũ Hành” hay “miếu Bà” - không nghe có kiểu gọi “miếu năm Bà”. Tiến về phương Nam, nếu rải rác tại vùng quê như Long An chỉ còn một ít ngôi miếu nhỏ bé,
thờ mỗi một cái linh bài lẽ loi, ghi hai chữ Hán đơn thuần là “Ngũ
Hành” thôi, thì tại vùng đất Gia định cũ, tức Sài Gòn (mở rộng) ngày
nay, tục thờ Năm Bà Ngũ Hành đã được quãng bá rất rộng rãi. Những ngôi
miễu Bà xuất hiện khắp nơi, nhứt là ở các vùng nông thôn và vùng ven đô.
Ban đầu, người ta thờ Bà bằng bài vị chữ Nho, nhưng mấy mươi năm gần
đây, bài vị lần hồi được thay bằng tượng tô, đúc bằng xi măng. Rồi từ
màu sơn thân tượng cho đến y áo, khăn choàng khoác ngoài, mỗi Đức Bà
(tức mỗi Hành) đều có màu riêng biệt. Kim Bà thì mặc áo trắng, Mộc Bà
áo xanh, Hỏa Bà áo đỏ, Thủy Bà áo đen (hoặc tím) và Thổ Bà thì áo vàng.
“BÀ” Ở TRONG ĐÌNH, CHÙA, CẢ TRONG KHU PHỐ, NGỎ HẼM
Ở
vùng Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định cũ, do phần lớn giới trung lưu và
giới bình dân (tiểu thương, sản xuất tiểu/thủ công nghiệp, lao động giản
đơn…), thường tin là Bà Ngũ Hành linh hiển, nên từ xa xưa, trước ngày
30/4/1975, miễu Bà được cất, dựng rải rác, liền kề nhau khắp các thôn
ấp, đường phố. Như ở quận Gò Vấp là địa phương vốn có rất nhiều chùa,
miễu thì chỉ nội trong hai khu phố kề nhau, đã có tới bốn chỗ thờ Bà Ngũ
Hành, một miễu ở mặt tiền đường và ba cái kia thì khuất trong ngỏ hẽm,
cách nhau chỉ chừng 500 – 600 mét. Xưa nay, trong đất thổ cư, vườn tược
của mình, nhiều nhà giàu đã cúc cung dựng miễu thờ Bà, như ở vùng quận 9
hiện nay, có những ngôi miễu Bà thật nhỏ, có khi chỉ bằng cái tủ áo,
được cất ngay cạnh ao nuôi cá và chuồng gà vịt. Có khi Bà được gia chủ
thờ riêng một miễu, khi thì thờ Bà chung với Thổ Địa, Quan Công, Mẹ Thai
Sanh…
Còn ở nơi thờ phượng công cộng là các ngôi đình làng, kiểu thờ “quần
tiên, chư thần” càng phồn tạp hơn. Mang danh nghĩa “đình” là dành thờ
Thành Hoàng (vị nhân thần bảo hộ cho làng, xã), nhưng trong đình thì
ngoài bệ thờ Thành Hoàng, luôn luôn có thêm bàn thờ, trang thờ Ngũ Hành Nương Nương, Quan Thánh, Thổ Địa, Tiền Hiền, Hậu Hiền, Linh Sơn Thánh Mẫu.v.v… Ở những ngôi đình cổ, như đình
Minh Hương Gia Thạnh (ở quận 5, xây năm 1797) , đình Phong Phú (ở quận
9, xây năm 1937), đình Phú Nhuận ( 150 năm tuổi), đình An Phú (ở quận
12, khoảng 250 năm tuổi).v.v…, thì hằng năm, bá tánh cùng vía Bà cũng
lớn không thua gì lễ vía Thành Hoàng địa phương.
Một
điểm đặc biệt nữa là dù chỉ thuộc về tín ngưỡng dân gian chứ không
thuộc hàng “chư Phật” trong Phật giáo, Bà Ngũ Hành vẫn được thờ trong
chùa (chính danh là cửa Phật), nhưng phải là với những ngôi chùa cổ
(theo Đại Thừa), chứ không phải với những ngôi chùa tân thời, mới cất
gần đây, như trường hợp chùa Quảng Đức (ở quận 3). Do vậy, trong khuôn
viên một số ngôi chùa cổ, như chùa Phổ Đà Quan Âm (quận Gò Vấp), chùa
Vạn Thọ (quận 1), chùa Bình An (quận Bình Tân), hay chùa Bửu Long sơn tự
ở tận Dĩ An (Bình Dương).v.v…, những ngôi miễu Bà vẫn quanh năm hương
khói…
Được
thờ cúng từ ở những ngôi miếu khang trang, lộng lẫy, cho đến những bàn
thờ, trang thờ nhỏ bé, đơn sơ tại tư gia, có thể nói “Bà” là nhóm thần
linh rất gần gũi với bá tánh. Thậm chí ở vài cái miễu trong ngỏ hẽm – có
khi nhỏ hẹp đến nổi chỉ bằng hai, ba chiếc chiếu trải ra - miễu vẫn còn là “hộ khẩu 1 người”, người coi sóc miễu ăn ở, sinh hoạt luôn ở phía sau bàn thờ Bà.
VÍA BÀ THÌ CÓ BÓNG RỖI HÁT, TẾ…
Theo
đúng tục lệ thì lễ vía Ngũ Hành Nương Nương là vào ngày 19 tháng Ba âm
lịch hằng năm, nhưng có vài nơi cúng trễ hơn, như ở ngôi miễu Bà nẳm ở
đường Phan Văn Khõe, gần chợ Bình Tây ( cất năm 1970), lại cúng Bà vảo
ngày 23 tháng Ba. Cũng theo đúng lệ thì vào kỳ vía, các miễu Bà phải mời
đám bóng rỗi – thường là dân pêđê nam – đến hát, tế, múa dưng bông… Trước đó, bà con thường xúm nhau “đấp y cho các Mẹ”, là nghi thức lau chùi, sơn sửa, thay áo, mảo mới cho các pho tượng Bà.
Riêng
ở một ngôi miễu nhỏ nằm trên đường Lê Lợi ( tên mới là Trương Đăng Quế,
phường 3 quận Gò Vấp, sẽ bị giải tỏa để mở đường), theo người coi sóc
miễu ( kiêm nghề tế bóng rỗi) thì bà con ở đây vẫn có lệ riêng là hễ lúc
nào có ai phát tâm cúng Bà là cứ nhờ chị tổ chức mâm lễ, chứ không cần chờ đến kỳ vía tháng Ba âm lịch. Còn theo bà chủ đất, thuộc gia đình đã bỏ công bỏ của cất ngôi miễu này từ năm 1950, cứ ba năm một lần, gia đình bà đều giữ đúng lệ cúng tạ Ngũ Hành Hành Nương, “ Các Mẹ Mẫu đã gia ơn phò hộ bấy lâu nay thì gia đình tôi mới được mạnh khỏe, bình an…”.
Phạm Nga
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét