Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Những di sản văn hóa Việt Nam dưới lăng kính nhiếp ảnh

NamBun - Theo PLXH

Chúng mình cùng ngắm Việt Nam qua cuộc thi và triển lãm ảnh nghệ thuật “Các di sản thế giới của Việt Nam” năm 2011 các bạn nhé!
Từ những nét bình dị của đời thường, đến những tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt đã được thể hiện cực kỳ ấn tượng đấy các bạn!

Cuộc thi và triển lãm ảnh nghệ thuật “Các Di sản Thế giới của Việt Nam” năm 2011 do Cục Mỹ thuật - Nhiếp ảnh và Triển lãm; Cục Di sản Văn hóa, Tổng Cục Du lịch và Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam phối hợp tổ chức chào mừng 66 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (2/9/1945 -2/9/2011) và 57 năm ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2011).

Sau 6 tháng phát động, BTC cuộc thi và triển lãm ảnh đã nhận được 2012 tác phẩm (trong đó có 147 ảnh đen trắng và 1865 ảnh màu) của 282 tác giả từ 38 tỉnh, thành phố gửi đến tham dự. Từ ngày 20 - 22/7/2011, qua các vòng chấm chọn, Hội đồng Nghệ thuật đã chọn được 206 tác phẩm để triển lãm, trong đó có 16 tác phẩm được trao giải.

Ngày 28/7/2011, tại Hà Nội đã diễn ra cuộc họp báo công bố kết quả cuộc thi và tổ chức triển lãm ảnh nghệ thuật “Các Di sản Thế giới của Việt Nam” 2011.

Bây giờ chúng ta cùng ngắm Việt Nam qua các tác phẩm đoạt giải nhé!
 

Báu vật nhân văn sống (Tác giả: Trần Việt Văn – Giải Nhất)
 
Hoàng hôn Lang Biang (Tác giả: Trần Thiết Dũng – giải Nhì)

Bức tranh phố Hội (Tác giả: Ông Văn Sinh – giải Nhì)
 
Nhịp nhàng Bơ Thi (Tác giả: Nguyễn Linh Vinh – giải Ba)
 
Cửa Đoan Môn ngày lễ rước Bằng chứng nhận Di sản Thế giới (Tác giả: Nguyễn Vinh Hiển – giải Ba)
 
Lán bè (Tác giả Nguyễn Hữu Nguyên – giải Ba)
 
Ẩn mình với thời gian (Tác giả: Lê Trọng Khang – giải Khuyến khích)

Quá khứ một triều đại (Tác giả: Nguyễn Quang Tuấn – giải Khuyến khích)

Lễ Hội Phù Đổng Thiên Vương (Tác giả: Trần Nhân Quyền – giải Khuyến khích)

Dáng xưa (Tác giả Thái Tuấn Kiệt – giải Khuyến khích)

Sương sớm (Tác giả Trương Vững – giải Khuyến khích)

Cồng chiêng Tây Nguyên (Tác giả: Ngô Đức Cần - giải Khuyến khích)

Ra khơi (Tác giả: Nguyễn Thành Vương – giải Khuyến khích)

Chùa Cầu (Tác giả Đoàn Thi Thơ – giải Khuyến khích)

Trước Hội (Tác giả: Bùi Quang Thuần – giải Khuyến khích)

Múa lục cúng hoa đăng (Tác giả: Võ Bảy – giải Khuyến khích)
 
Việt Nam của chúng ta thật đẹp phải không các bạn?

Ghé thăm các khu Văn Miếu đáng tự hào của đất nước


Không chỉ có Hà Nội mới có Văn Miếu đâu các bạn nhé!
Đây chính là những di sản văn hóa quan trọng và lưu giữ nhiều nét đẹp lịch sử truyền thống của cả nước đấy các bạn ạ.

Chúng ta cùng tham quan những Văn Miếu nổi tiếng ở nước ta để hiểu thêm về giá trị văn hóa đa dạng, tốt đẹp của đất nước chúng mình nhé!

1. Văn Miếu – Quốc Tử Giám (còn gọi là Văn Miếu Thăng Long - Hà Nội)

Có lẽ ai trong chúng ta cũng đều biết về quần thể di tích văn hóa, lịch sử độc đáo nhất của Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung này đúng không các bạn?

Khuê Văn Các – Thiên quang tĩnh, nơi giao hòa của đất trời. Đây chính là biểu tượng cho truyền thống hiếu học của cả nước đấy các bạn.
Văn Miếu được vua Lý Thánh Tông cho xây dựng tháng 10/1070 để thờ Khổng Tử, các bậc Tiên thánh, Tiên sư của Nho học. Năm 1076, Lý Nhân Tông (con trai vua Lý Thánh Tông) cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu, có thể coi đây là trường Đại học đầu tiên ở Việt Nam.

Văn Miếu Môn, cổng dẫn vào khu thứ nhất.
Hiện nay, Văn miếu – Quốc Tử Giám được xem như là biểu tượng của tri thức, của nền giáo dục Việt Nam. Ngoài các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, ở đây còn ghi dấu Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An – người thầy tiêu biểu về đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam.

Thiên Quang Tĩnh
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám có diện tích 54.331m2 bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám. Dĩ nhiên, tiêu biểu và quan trọng nhất là Văn Miếu, nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám - Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Tọa lạc, ở phía Nam thành Thăng Long, Hà Nội. Cổng chính là phố Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu.

Bia tiên sĩ trong Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Ngày nay tại Văn Miếu, Khuê Văn Các (gác vẻ đẹp của sao Khuê, chủ đề văn học) và 82 Bia Tiến sĩ (UNESCO công nhận là di sản Ký ức nhân loại) được xem như là một nét kiến trúc, văn hóa, di sản tiêu biểu nhất.

Các sĩ tử với truyền thống sờ bia tiến sĩ trước mỗi kỳ thi để cầu may mắn.
Khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện là nơi thu hút rất đông sự tham quan của du khách trong và ngoài nước. Đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc, các sân chơi tri thức (Gala chung kết: Rung Chuông Vàng…) và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử đến “xin lộc”, “cầu may” trước mỗi kỳ thi.

2. Văn Miếu Mao Điền (Hải Dương)
Văn Miếu Mao Điền – (Mao: cỏ lau, Điền: ruộng cấy, như vậy: Mao Điền là một vùng đất bằng phẳng có nhiều cỏ lau).
Đường vào Văn Miếu Mao Điền rợp màu xanh của lúa. Một khung cảnh đẹp lunh linh như tranh thủy mặc ấy đúng không các bạn?

Di tích lịch sử cấp Quốc gia (công nhận xếp hạng năm 1992). Văn Miếu được xây dựng từ thời Lê Sơ (Thế kỉ XV) tại làng Mậu Tài, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Cổng Văn Miếu.
Văn Miếu được hợp nhất với trường thi Hương của tỉnh Hải Dương (nay là Văn miếu Mao Điền và cánh đồng Tràng) vào thời Tây Sơn (1788 – 1802). Công trình rộng 3,6 ha này được xây dựng theo hướng Nam gồm các hạng mục: Bái đường, Hậu cung mỗi toà 7 gian, xây theo kiểu chữ Nhị, Đông vu, Tây vu, gác Khuê văn, gác Chuông, gác Khánh, đài Nghiên, tháp Bút, Nghi môn, Thiên Quang tinh và Khải thánh thờ thân Phụ và thân Mẫu của Khổng Tử.

Toàn cảnh Văn Miếu Mao Điền.
Hiện nay Văn Miếu Mao Điền dùng để thờ Khổng Tử và các bậc đại nho theo truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc và một số nước Đông Á khác. Hàng năm, từ xưa đến nay, trấn Hải Dương đều tổ chức lễ tế Khổng Tử, các quan đầu trấn, đầu phủ cùng cử nhân, tiến sỹ về làm lễ trọng thể, nêu cao truyền thống hiếu học của tỉnh.

Cầu đá dẫn vào Văn Miếu.
Văn miếu và trường thi Hương trấn Hải Dương từng có một lịch sử vẻ vang. Tại đây đã đào tạo hàng ngàn cử nhân, tiến sỹ nho học đứng vào hàng đầu cả nước. Nếu chỉ tính số người đỗ Đại khoa trong 185 kỳ thi (từ năm 1075 – năm 1919), cả nước có 2.898 tiến sỹ thì trấn Hải Dương có 637 vị, trong số 46 Trạng nguyên, Hải Dương có l2 người.

Ngay giữa sân có sự hiện diện của cây gạo cổ thụ, tương xứng với giá trị mà Văn Miếu đã lưu giữ qua thời gian.
Đặc biệt, trong kì thi Ất Mùi năm Đại Chinh thứ 6 (năm 1535), trấn Hải Dương có Nguyễn Bỉnh Khiêm, người nổi tiếng Thủ khoa cả ba kỳ thi: Hương - Hội - Đình, được triều đình phong tặng Trạng nguyên.
Khung cảnh như chốn bồng tiên ấy nhỉ?
Rất đông du khách đến viếng Văn Miếu vào các dịp lễ hội hàng năm.

Văn miếu Mao Điền hiện nay chính là niềm tự hào về quá khứ vẻ vang, nơi đại diện cho tri thức và tinh thần hiếu học của tỉnh Hải Dương. Không chỉ thế, nơi đây còn thu hút rất đông khách du lịch đến tham quan hàng năm.
3. Văn Miếu Bắc Ninh

Đây chính là nơi lưu giữ đầy đủ, rõ nét nhất về lịch sử khoa bảng vẻ vang của xứ Kinh Bắc.
Một góc Văn Miếu

Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng từ thời Lê Sơ ở núi Châu Sơn, huyện Thị Cầu. Sau nhiều lần sửa chữa, tu bổ, năm 1884 văn miếu được xây dựng lại, năm 1893 được chuyển về vị trí hiện nay (xóm 10, Đại Phúc, Bắc Ninh).

Bức bình phong hàng trăm năm tuổi: “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn Miếu bi ký” dựng năm 1928.
Văn Miếu Bắc Ninh là nơi thờ Khổng Tử, Tứ Phối và 12 tấm bia lưu giữ khoa danh của 677 vị tiến sĩ quê hương Kinh Bắc xưa.

Bàn thờ bên trong nhà Tiền tế.
Kiến trúc Văn Miếu gồm: Tiền Tế (5 gian), Hậu Đường (5 gian) hai bên hồi Hậu Đường là Bi Đình (3 gian), hai bên hồi Tiền Đường là Hội Đồng trị sự và Tạo Soạn; hai bên sân trước Tiền Tế là nhà Tả Vu, Hữu Vu. Chính diện có bia bình phong “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn Miếu bi ký” khắc dựng năm 1928. Toàn bộ công trình được xây dựng bằng gỗ lim được bào trơn đóng bén rất tinh tế và cổ kính.

Nét kiến trúc đơn sơ, bình dị và gần gũi với: ngói đỏ, gạch đá và cây xanh trong Văn Miếu.
Người Bắc Ninh có quyền tự hào với làn điệu Quan họ (Di sản văn hóa thế giới - 2009) thì cũng sẽ chẳng bao giờ quên truyền thống hiếu học qua bao đời. Văn Miếu Bắc Ninh chính là đại diện tiêu biểu nhất cho giá trị truyền thống và sự học vẻ vang của miền đất văn hiến này.
4. Văn Miếu Xích Đằng (Văn Miếu Hưng Yên)
Nằm cạnh con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, văn miếu Xích Đằng được biết đến là một di tích quan trọng nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, thuộc làng (thôn) Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

Lối vào Văn Miếu, hai bên là hai hàng cây xanh.
Được xây dựng vào năm 1832, với hàng trăm năm tồn tại cùng với những thăng trầm của thời gian. Nơi đây vẫn chính là hồng quang đại diện cho tri thức, sự uyên bác mà các thế hệ người con Hưng Yên luôn ghi nhớ với 161 vị đại khoa được lưu danh bảng vàng.
Nghi môn Văn Miếu Xích Đằng.
Văn Miếu Xích Đằng trước đây là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn Hưng Yên. Hiện tại Miếu đang thờ hai pho tượng của Đức Khổng Tử và các bậc chư hiền nho gia. Cùng với đó là pho tượng của người thầy giáo lỗi lạc, người hiệu trưởng đầu tiên của văn miếu Quốc Tử Giám: Chu Văn An.
Hữu Vu bên trong Văn Miếu.
Cổng Nghi Môn của Văn Miếu Xích Đằng là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác.

Một trong chín bia đá lưu danh các vị đại khoa bên trong khu Nội tự.
Khu nội tự có mặt chính quay về hướng Nam, được thiết kế theo kiểu chữ “Tam”: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”.

Khánh đá độc đáo.
Đặc biệt hơn, tại Văn Miếu Xích Đằng có thiết kế lầu chuông (Rất hiếm thấy trong các Văn Miếu tại Việt Nam). Tiếng chuông và tiếng khánh chính là âm thanh báo hiệu thời gian cho các kỳ thi trước đây. Đồng thời ngày nay, nó chính là tiếng tri ân, bày tỏ lòng thành kính đối với các bậc hiền tài, nho sĩ trong các dịp lễ hội.

Nhà tiền tế của Văn Miếu Xích Đằng, với dáng vẻ rất mộc mạc và đậm nét Nho gia.
Hằng năm, khi mùa xuân về, tại Văn Miếu tổ chức rất nhiều các hoạt động giao lưu, sinh hoạt văn hóa, lễ hội truyền thống. Đây cũng là dịp mà người con Hưng Yên nói riêng và các du khách thập phương kéo về dự hội tại Xích Đằng rất nhộn nhịp.

5. Văn Miếu Trấn Biên (Đồng Nai)
 
Đối với người dân Trấn Biên, họ cũng xây cho riêng cho mình một Văn Miếu để tiếp nối truyền thống hiếu học, nơi lưu danh các bậc hiền tài của đất nước. Văn Miếu Trấn Biên được xem như “Quốc Tử Giám” của Nam Bộ.
 
Đường vào Văn Miếu Trấn Biên.
 
Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng vào đời vua Hiển Tông năm Ất Vị thứ 25 (tức năm 1715). Công trình được Trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký Lục Phạm Khánh Đức cho xây dựng tại thôn Bình Thành và Tân Lại, tổng Phước Vĩnh (nay là phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai).
 
Theo sách "Ðại Nam nhất thống chí" của Quốc sử quán triều Nguyễn miêu tả, Văn Miếu Trấn Biên được ghi nhận là Văn Miếu được xây dựng sớm nhất ở miền Nam (mặc dù ra đời sau Văn Miếu Quốc Tử Giám hơn 700 năm). Văn Miếu Trấn Biên thờ Khổng Tử, các bậc vĩ nhân, danh nhân văn hóa, giáo dục của đất nước, đặc biệt là các nhân sĩ, hào kiệt phía Nam.
 
Khuê Văn Các và…
 
… nhà thờ chính với hồ nước trong xanh ở giữa đã tạo nên một khung cảnh lung linh, tuyệt sắc.
 
Gắn liền với Văn Miếu Trấn Biên là một nền giáo dục phát triển, nơi đã sinh ra nhiều danh nhân làm rạng rỡ miền đất phương Nam như: Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Ðức, Nguyễn Ðình Chiểu, Ngô Nhân Tịnh và Lê Quang Ðịnh.
 
Khi quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa năm 1861, chúng đã phá hủy hoàn toàn Văn Miếu Trấn Biên nhằm dập tắt tinh thần yêu nước của người dân Nam Bộ. Văn Miếu Trấn Biên bị hủy hoại sau 146 năm tồn tại.
 
Văn Miếu Môn.
 
Ngày 09/12/1998, Văn Miếu Trấn Biên được khởi công khôi phục lại trên nền Văn Miếu cũ với số tiền đầu tư gần 20 tỷ đồng. Văn Miếu Trấn Biên hiện nay sừng sững, uy nghi tọa lạc trên diện tích rộng 20.000m2 tại phường Bửu Long, TP Biên Hòa, tỉnh Ðồng Nai.
 
Nổi bật trong kiến trúc Văn Miếu là những vòm mái cong, lợp ngói lưu ly màu xanh ngọc bằng gốm tráng men, có lầu bia uy nghi tráng lệ. Từ cổng vào là nhà bia, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, cổng Tam quan, nhà bia thứ hai và nhà thờ chính. Đặc biệt, bia Tiến sĩ được khắc bằng đá xanh với câu nói nổi tiếng của Thân Nhân Trung: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia".
 
Bia thờ Khổng Tử
 
Nhà thờ chính xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái, theo kiến trúc cổ: Đặt bàn thờ Bác Hồ ở gian giữa, trên tường có biểu tượng trống đồng tượng trưng cho nền văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương. Trong gian thờ chính có trưng bày 18kg đất và 18 lít nước mang về từ đền Hùng, biểu trưng cho 18 đời Vua Hùng, cội nguồn của dân tộc.
 
 
Văn Miếu khi về đêm.
 
Trong Văn Miếu Trấn Biên thì đặt bàn thờ đức Khổng Tử, bàn thờ Quốc tổ và Lịch đại đế vương. Gian bên trái thờ các danh nhân Chu Văn An, Nguyễn Trãi và Lê Quý Ðôn. Gian bên phải thờ Võ Trường Toản, Ðặng Ðức Thuật và ba vị anh hào "Gia Ðịnh tam kiệt": Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Ðịnh.
 
Phía trước nhà thờ chính còn có hai ngôi miếu, miếu bên trái thờ Tiên sư, miếu bên phải thờ Tiền hiền - Hậu hiền.
 
Vào dịp lễ hội, Văn Miếu thu hút rất đông du khách tham quan, viếng lễ.
 
Văn Miếu Trấn Biến là nơi bảo tồn, gìn giữ, tôn vinh các giá trị văn hóa – giáo dục từ xưa đến nay của Nam Bộ nói riêng và của cả nước nói chung. Hàng ngày có rất nhiều các bạn trẻ và du khách thường xuyên tham quan và viếng lễ tại Văn Miếu.
 
6. Văn Miếu Huế
 
Văn Miếu Huế hay Văn Thánh Huế là cách gọi tắt tên Văn Thánh Miếu được xây dựng tại Cố đô của chúng ta.
 
Trước đây, các chúa Nguyễn đã xây dựng Văn Miếu tại thủ phủ rồi đã thay đổi vị trí qua ba địa điểm khác nhau: làng Triều Sơn, làng Lương Quán, làng Long Hồ. Năm 1808, dưới triều vua Gia Long, Văn Miếu Huế được xây dựng ở địa điểm hiện nay. Ngôi miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ (miếu thờ cha, mẹ Khổng Tử).
 
Văn Miếu Huế với địa thế tựa núi, nhìn sông rất gần gũi với thôn quê và truyền thống con người Việt Nam.
 
Văn Miếu được xây dựng uy nghi, đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Phú Xuân cũ. Văn Miếu quay mặt về hướng Nam.
 
Toàn bộ kiến trúc chính của Văn Miếu đều được dựng trên ngọn đồi cao gần 3m so với nền đất xung quanh, trước mặt là sông Hương, phía sau là làng mạc, núi đồi. Các công trình của Văn Miếu được xây dựng trong mặt bằng hình vuông: mỗi cạnh chừng 160m, xung quanh xây la thành bao bọc. Tất cả có 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ, đặc biệt là 32 tấm bia tiến sỹ và 4 tấm bia khác.
 
Bên trong Văn Miếu nhìn ra sông Hương với một khung cảnh ẩn nét lặng lẽ và sâu đậm của lịch sử, văn hóa.
 
Từ cổng Đại Thành Môn vào bên trong, chính giữa Văn Miếu là Đại Thành Điện thờ Khổng Tử. Đại Thành Điện là kiến trúc trọng yếu của Văn Miếu, toàn bộ được xây dựng trên một nền cao, dài chừng 32m, rộng 25m. Cấu trúc của đại điện phỏng theo lối trùng thiềm điệp ốc truyền thống của Huế. Hai bên trước điện Đại Thành dựng hai ngôi nhà đối diện nhau là Đông Vu và Tây Vu. Cả hai ngôi đều có bảy gian để thờ thất thập nhị hiền và các tiên nho.
 
Đại Thành Môn.
 
Trước sân miếu có hai nhà bia, bia bên phải khắc văn bia của Thánh Tổ Nhân Hoàng đế (vua Minh Mạng), bia bên trái khắc bài văn bia của Hiến Tổ Chương Hoàng đế (vua Thiệu Trị).
 
Ngoài cổng Đại Thành Văn Miếu, bên trái có Hữu Văn Đường, bên phải có Dị Lễ Đường, là những ngôi nhà kiểu một gian hai chái dùng để vua quan nghỉ chân sửa soạn lễ phục trước khi vào tế ở Miếu.
 
Lối đi được lát gạch nung bên trong Văn Miếu. Hai bên là hai hàng bia Tiến sỹ.
 
Những tấm bia còn lại được lưu giữ khá cẩn thận với nhà che và được sắp xếp rất khoa học.
 
Đặc biệt hơn, phía trước là hai dãy bia gồm 32 tấm bia, khắc tên 293 vị Tiến sỹ thi đỗ trong 39 kỳ thi Hội, thi Đình tổ chức dưới triều Nguyễn.
 
Ngoài ra, Văn Miếu còn có các công trình khác như: Thần trù (nhà bếp), Thần khố (nhà kho), Đại Thành môn, Văn Miếu môn... Các tòa nhà đều được xây dựng bằng gỗ lim, kiến trúc, trang trí đăng đối, uy nghi.
 
Những tấm bia Tiến sỹ thời Nguyễn đang được lưu giữ tại đây
 
Hiện nay cùng với một số Văn Miếu lớn của cả nước như: Quốc Tử Giám, Trấn Biên (Đồng Nai)… Văn Miếu Huế chính là lưu giữ những minh chứng về sự nghiệp giáo dục của cả nước. Cùng với đó là giá trị truyền thống nhân văn của người Việt Nam ta luôn được gìn giữ và phát huy từ xưa đến nay.
 
Văn Miếu đã trở thành một điểm đến tham quan của rất đông du khách trong và ngoài nước, đặc biệt là các bạn trẻ với mong muốn được lưu danh bảng vàng như những danh sĩ đã được khắc tên tại các bia Tiến sĩ ở Văn Miếu.