Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

Đi tìm dấu chân các vị thần bất tử

Kỳ 1: Thương trần thế, thần tiên xuất hiện.

"Tứ bất tử" - tên gọi chung của bốn vị thần bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam: Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh Công chúa. Bao đời nay, những truyền thuyết, huyền thoại về bốn vị thần bất tử này hiển nhiên vẫn còn sống mãi trong tâm thức người Việt.

Đó chỉ một vế đối trong câu đối trọn vẹn mà người dân các vùng Thanh Ba (Phú Thọ), Sơn Tây, Ba Vì (Hà Nội) vẫn truyền miệng ngàn năm nay về sự tích Đức Thánh Tản Viên - Sơn Tinh - Nguyễn Tuấn. Đức Thánh Tản cũng là vị thần tối cao của Tứ bất tử mà theo thứ tự dân gian sắp xếp theo tên gọi: Thượng đẳng tối linh thần hay Thượng thượng Phúc đẳng thần.

"Nhưng quan trọng hơn là vế đối thứ hai: Cứu lầm than, đức Thánh trổ tài. Bởi ngài xuất hiện nhưng không mang tài năng ra giúp nước, giúp dân trong lúc nguy nan thì chẳng phải là vô ích sao?", cụ Nguyễn Hữu Bích, 81 tuổi, một người sùng Nho giáo, nhà ở chân núi Ba Vì, chậm chạp ngả cây gậy chống, dựa lưng vào tấm đá giữa đường lên núi Ba Vì giải thích trong lúc nghỉ chân.

Trong rất nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu lịch sử, "Tứ bất tử" là bốn vị thần đứng đầu trong 27 vị thần trong văn hóa tâm linh Việt Nam. Mặc dù có nhiều tranh cãi về việc có tới lục bất tử (ngoài Tản Viên thần, Thánh Gióng, Chử Đồng Từ và Liễu Hạnh công chúa còn có thêm Trần Hưng Đạo, Nguyễn Minh Không) nhưng đa số đều đồng ý với quan điểm của dân gian với 4 vị thần tối cao bất tử như trên.

Nhân thần một cõi

Cụ Bích nói dù đã già nhưng tháng nào cũng phải lên núi một vài bận trừ khi ốm đau hay xương nhức mà toàn đi một mình, một gậy. Cụ Bích bảo: "Thong thả mà đi. Bây giờ sương mù vẫn quấn chân người thì là đầu giờ Thìn (hơn 7h sáng), cùng lắm trước Ngọ (11h trưa) thế nào cũng đến đền đức Thánh. Đi đến đây mà không vãn cảnh đường, cứ ào ào thì coi như không đi".


< Đền thờ Tản Viên Sơn Thần.

Phải len lỏi trong những đống gạch đá ngổn ngang dọc lối lên đỉnh Ba Vì mà hàng chục đơn vị thi công đang cố gắng trùng tu, tái tạo khu di tích đến thờ Đức Thánh Tản khiến cụ Bích cứ khoảng 30 phút phải nghỉ một lần. Mỗi lần nghỉ ấy, cụ Bích lại kể mạch lạc những gì mình biết về thần: "Đức Thánh Tản Viên có nhiều tên gọi lắm nhưng người ta vẫn nói ngài chính là Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh mà trẻ con vẫn học. Tên thật mà dân gian truyền tụng là Nguyễn Tuấn, một thanh niên tuấn tú có nhiều tài lạ và đức độ được chọn làm con rể vua Hùng Vương thứ 18. Vợ của ngài là Mị Nương tên thật là Ngọc Nga công chúa".

Theo GS sử học Lê Văn Lan, thần Sơn Tinh hay thần Tản Viên vốn được coi một cách mặc định là "vị thần đệ nhất" trong "Tứ bất tử": "Sơn Tinh là thần núi. Thần Tản viên là vị thần của núi Ba Vì. Cứ như nghiên cứu bây giờ, Đức Thánh Tản Viên vừa là vị thần tự nhiên, có công lãnh đạo người dân nước Việt từ xa xưa làm thủy lợi chống thủy tai. Nhưng cũng có công đức là một vị nhân thần nữa. Trong lịch sử, Nguyễn Tuấn - nguyên mẫu của thần Tản Viên Sơn Tinh còn là một vị tướng của vua Hùng đã giúp vua Hùng bảo vệ sự nghiệp nhà Hùng vào thời chuyển giao sự nghiệp đất nước từ Văn Lang sang Âu Lạc lúc bấy giờ. Do đó đây là vị thần đệ nhất trong "Tứ bất tử" trong tâm linh người Việt. Một người thật hóa thân thành thần hoặc có thể nghĩ khác: Thần hóa thân thành người thật".

Linh thiêng ngàn đời

Đúng như lời cụ Bích nói, đầu ngọ (11g trưa) cụ đã trải bộ dốc 1.227m cùng hơn 1.300 bậc đá leo đên đỉnh đền Thượng trên núi Ba Vì. Cúi mình làm lễ trước bàn thờ Đức Thánh Tản rồi cụ Bích hướng tầm mắt ra cả một vùng rộng lớn để nhìn thấy cả thủ đô phía trước. Theo lý giải của cụ Bích, không phải ngẫu nhiên mà Đức Thánh Tản chọn Ba Vì làm nơi ẩn cư sau khi nhường ngôi báu cho An Dương Vương và người dân cũng lập đền thờ Đức Thánh Tản ở đỉnh núi.

Bằng kiến thức của một nhà nho kiêm một kĩ sư mỏ - địa chất, cụ Bích cho rằng sự linh thiêng ở đây phải được hiểu theo nghĩa "tín tâm" chứ không phải "mê tín dị đoan": "Ba Vì là đất thiêng. Nếu tính độ cao thì đây là điểm cao nhất của cả Hà Nội khi sát nhập. Phong thủy phương Đông cho rằng nơi nào núi cao, sông sâu là địa linh nhân kiệt, linh thiêng ngàn đời. Khoa học hiện đại cũng tương đồng bởi các dãy núi cao được hình thành từ những cơn địa chấn mạnh hàng triệu năm để lại trong đó những luồng kim loại quý có từ trường mạnh có lợi cho việc hình thành trí thông minh của con người".

Theo GS sử học Lê Văn Lan, sự tích núi Ba Vì vốn có từ thời Hùng Vương giải thích cho việc Sơn Tinh nâng núi lên ba đợt thủy tai do Thủy Tinh dâng lên báo thù. Nhưng núi có hình dáng một cái cây xòe ra nên cũng có cái tên là Tản Viên và được coi là nơi linh thiêng số một của nước Việt. Trong suốt lịch sử phong kiến, nhiều vị vua đã lên tận đỉnh Ba Vì làm lễ cầu an. Nhiều nhà sử học hiện nay cũng cho rằng địa thế của dãy núi Ba Vì là "tiền thủy - hậu thạch", trước mặt nơi hội tụ của ba dòng: sông Hồng, sông Đà, sông Thao và dựa lưng vào núi Tản Viên. Nước sông Đà chảy từ bên trái sang bên phải "Trường lưu thủy", tất cả đều chảy về biển lớn, nhìn toàn cảnh hình thế tay ngai, mạch đất linh thiêng. Sự linh thiêng của Ba Vì giờ đây còn có thêm ngôi đền thờ Bác Hồ nằm ở độ cao 1.269m. Ngôi đền được khởi công và hoàn thành ngay trong năm 1999. Để bảo vệ ngôi đền thờ Bác, đơn vị Kiểm lâm rừng quốc gia Ba Vì được giao thêm nhiệm vụ ngày đêm túc trực trông coi, hương khói trong đền và tiếp đón khách hành hương về thăm viếng.

Kỳ 2: Thánh Gióng có thật?

Người mẹ có vẻ đẹp thánh thần, 16 tuổi gương mặt hồng hào, mắt như ánh trăng, trên đầu lúc nào cũng tỏa ánh hào quang lấp lánh. Người mới sinh ra đã thông minh, đĩnh ngộ, lớn lên càng khôi ngô, anh dũng. Cả hai mẹ con đều có gốc tích rõ ràng chứ không mập mờ huyền thoại.

Đó là những phát hiện lịch sử mới đây về mẹ con Thánh Gióng, khác hẳn những gì miêu tả mẹ con Thánh Gióng ban đầu như trong truyền thuyết.

Trăm ao hồ để lại

Trưa chang chang nắng, những khách bộ hành bước vội trên triền đê Phù Đổng để rẽ vào con đường làng rợp bóng tre. Một không gian văn hóa đậm chất làng quê hiện lên giữa Hà Nội phồn hoa khiến nhiều du khách thích thú. Đây là lần thứ hai cô Maia, sinh viên văn hóa của Nga, đến đền Gióng. "Việt Nam có rất nhiều truyền thuyết về thần thánh. Không biết là hư hay thực nhưng đều đó khiến tôi thích thú khi đến Việt Nam. Điều đặc biệt là thần thánh Việt Nam rất... yêu nước", Maia tâm sự. Lần này đến Việt Nam, Maia và hai người bạn tìm thêm dẫn chứng cho đề tài "Sự thật lịch sử mang tính huyền thoại trong văn học Việt Nam". Câu chuyện Thánh Gióng mà Maia và những người bạn được các cụ già Phù Đổng kể lại ngay dưới gốc đa đền Gióng.

Câu chuyện về Thánh Gióng vừa dứt, Maia hỏi: "Những gót ngựa Thánh Gióng khi bay về trời tạo thành hàng trăm ao hồ như thơ của ông Điềm (bài thơ "Đất nước"của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - PV) mà bây giờ vẫn còn có đúng không?". Cả làng Phù Đổng giờ chỉ còn chiếc ao cạnh đền Gióng và vài cái ao khác vì quá trình đô thị hóa. "Nhưng trước kia từ đây lên đến tận núi Sóc của huyện Sóc Sơn, những cái ao san sát theo hình chữ "chi" kiểu chân ngựa chạy là có thật. Đến tận năm 1972, khi Hà Nội chịu đợt ném bom B-52 của Mỹ vẫn còn", cụ Mẫn, một trong những người cao tuổi nhất làng Phù Đổng, khẳng định.

Đền Gióng ngự trên một khu đất đẹp, tương truyền được xây dựng trên chính nền ngôi nhà cũ nơi Gióng sinh ra. Trước đây, nơi này chỉ là một thảo am nhưng vua Lý Thái Tổ khi dời đô ra Thăng Long đã cho xây  một ngôi đền khang trang. Trước đền có thủy đình nằm trong hồ bán nguyệt, được xây dựng từ thời Lý.

Đi tìm sự thật

TS Hán học Cung Khắc Lược và TS Lương Văn Kế đã công bố những phát hiện mới về nguồn gốc đệ nhị tứ bất tử cũng từ một ngôi đền thờ khác: Đền Bộ Đầu (còn có tên gọi khác à đền Quan Thánh) ở xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội. Cả hai ông khẳng định: Thánh Gióng có thật chứ không phải truyền thuyết hư cấu. Mọi chuyện bắt đầu khi TS Cung Khắc Lược và TS Lương Văn Kế nghiên cứu bức tượng Đổng Sóc Thiên Vương cao 6m ở hậu cung ngôi đền. Đây có lẽ là pho tượng cổ lớn nhất trong di sản văn hóa dân tộc còn lại cho đến ngày nay.

Theo tài liệu mà ông Lược và ông Kế công bố, bản thần phả gốc của ngôi đền này được tìm thấy trong Viện nghiên cứu Hán Nôm, ngoài bìa có đóng dấu bầu dục của Viễn Đông Bác cổ thời Pháp thuộc. Thần phả do Hàn Lâm viện, Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn bằng Hán văn vào năm thứ nhất niên hiệu Hồng phúc, triều Lê Anh Tông (1572). Nội dung bản thần phả thờ đức Đổng Sóc Thiên Vương có nhiều điểm khác với những gì dân gian biết về Thánh Gióng. Mẹ của Thánh Gióng trong tư liệu không có hình dáng là một bà già nghèo khổ không con mà là một cô gái 16 tuổi có nhan sắc thánh thần. Khi cô tròn 16 tuổi, gương mặt hồng tươi, mắt tựa ánh trăng rằm hồ thu, nhan sắc tuyệt vời, nghiễm nhiên thành một trang giai nhân tuyệt thế. Cô gái sau đó là vợ của đại quan lang họ Đổng tên Gia vùng Đại Mạn Châu danh giá.

Nhưng chỉ một năm sau Đổng Gia mất. Bà vào tu tại chùa Hoàng Nham và được "thiên thụ" mà có thai. Sau 3 năm 4 tháng sinh ra một bọc hình như đóa sen hồng còn phong nhụy, lúc nào cũng thoang thoảng hương và có những dải mây cầu vồng quấn quýt, 7 tháng sau bông sen chưa nở. Sen chỉ nở thành hài nhi khi vua Hùng đưa về cung ngày đêm chăm sóc. Hài nhi sau này uy phong, cầm quân tiêu diệt giặc Ân, rồi sau đó lại giúp dân trồng trọt và trị thủy. Theo TS Lương Văn Kế, người gắn bó hàng chục năm với đền Quan Thánh thì "sự tồn tại của dòng họ Đổng đã quá rõ ràng, vấn đề là làm thế nào để chắp nối được liên tục phả hệ của dòng họ này mà thôi. Không chỉ thế, TS Cung Khắc Lược còn tiết lộ những nghiên cứu từ thần phả họ Đổng rằng "Thánh Gióng còn là một người con một mực hiếu thuận. Khi ông đã về trời, nhận được tin mẹ mình đang bị thuồng luồng ăn thịt, ông đã giáng thế cứu mẹ mình".

Tuy nhiên, trước đây cố GS Trần Quốc Vượng cũng đã công bố tài liệu lưu trữ trong viện Hán Nôm mà ông đã thẩm định về nguồn gốc Thánh Gióng. Theo đó, Thánh Gióng lại có nguồn gốc vua Hùng có tên thật là Đàm Gia. Đàm Gia, con của một cung phi triều Kinh Dương Vương Vua Hùng Huy Vương. Thần phả do Hàn lân Đông các đại học sỹ Nguyễn Bính soạn năm 1527 và truyền thuyết dân gian kể rằng, vào đời thứ 6, triều Kinh Dương Vương Vua Hùng Huy Vương trị vì, thuở ấy nhân dân no đủ, bốn biển thanh bình. Khi giặc Ân phạm vào bờ cõi, Đàm Gia được lệnh đem binh diệt giặc lập công lớn được phong là Đàm Gia Đại Vương. Khi Đàm Gia mất biến thành ánh ào quang rơi xuống giếng nơi mẹ mình nhân lúc tắm mà mang thai.

Ngôi thứ của "Tứ bất tử"

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Phạm Văn Kính cho rằng việc chia ngôi thứ trong "Tứ bất tử" hoàn toàn theo tâm lý dân gian nhưng cực kì logic. "Khi con người mới sinh ra việc đầu tiên là thích ứng với thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên để tồn tại nên Sơn Tinh - vị thần có công dạy dân, giúp dân chống lũ lụt thiên tai đứng đầu tứ bất tử. Khi xã hội có giai cấp, hình thành quốc gia, thì việc trung quân, ái quốc được đề cao và lẽ sống cơ bản nên Thánh Gióng -  người đánh giặc Ân được xếp vào vị trí thứ hai. Trong các đạo của con người, đạo hiếu là cơ bản nhất vì thế con người chí hiếu như Chử Đồng Tử được xếp vị trí thứ ba. Liễu Hạnh công chúa là người cuối cùng và cũng là nữ duy nhất trong tứ bất tử với nhiều huyền thoại và tái sinh nhiều lần".
Kỳ 3: Chí hiếu động thiên

< Đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung tại Khoái Châu, Hưng Yên.

Giáp Tết âm lịch, những vườn cải trổ hoa vàng rực cả dải đất ven sông Hồng. Trên những con đường làng, con trẻ vẫn ríu rít đánh khăng, đánh đáo. Phía xa xa là những bãi cát nặng phù sa trải dài cong cong uốn mình thanh tĩnh mà không heo hút.

Không phải mơ mà đó là không gian đậm chất văn hóa miền Bắc châu thổ sông Hồng thuộc xã Bình Minh, Khoái Châu, Hưng Yên. Mấy ngàn năm trước, ở đấy có một người con chí hiếu khóc thương tiễn cha bằng tấm khố cuối cùng.


"Cái khố" và ngôi nhà ông lái đò

Chúng tôi ngược dòng sông Hồng tìm về đền Đa Hòa, xã Bình Minh, là quê cũng là nơi thờ đệ tam tứ bất tử: Chử Đồng Tử. Người lái đò dùng chân đạp nhẹ mái chèo, thuyền xuôi gió chạy băng băng. Ông tên Minh, hơn 70 tuổi nhà ở Tiên Lữ, mấy đời bám nghề sông nước. Ông kể đau lòng nhất là đứa con nghiện ngập bất hiếu, chết trẻ bỏ lại vợ chồng ông từ năm 2009. Khuôn mặt ông nhăn nheo, đôi mắt u buồn khi nghe nói lại chuyện Chử Đồng Tử xa xưa . "Trước năm 2009, tôi với vợ bám sông để sống. Vợ chồng có mỗi một đứa con nên có bao nhiêu tiền, đều mua cho nó những thứ thích nhất, chỉ mong nó được khá hơn mình. Ngôi nhà chật hẹp nên hai vợ chồng ở luôn dưới thuyền nhường nhà cho con ở. Chỉ bữa ăn hai vợ chồng mới đưa cơm lên bờ cho con. Nào ngờ...".

Con ông Minh, từ nhỏ đã được chiều chuộng lại ở một mình, mới lớn đã quen thói tụ tập bạn bè rồi đâm hư hỏng hút chích. Ngôi nhà ông Minh bị con trai bán lấy tiền để bù khú lúc nào không hay, rồi hết tiền bỏ đi biệt xứ. "Chẳng dám mong con mình có hiếu như thánh nhân nhưng chỉ cần nó nên người như con nhà khác. Tôi không tiếc ngôi nhà mà tiếc con. Hiếu hay không cũng do cách giáo dục của mình" - ông Minh nói mắt rưng rưng ân hận. Thì ra, khi gợi mở câu chuyện hiếu của Chử Đồng Tử, ông mới mạnh dạn bày tỏ tâm can vốn đã thành ẩn ức đau buồn.

Thuyền cập bến trước cửa đền Đa Hòa, ngoảnh mặt ra một bến rộng mang tên Chử Đồng Tử và một gác lâu nhìn thẳng ra sông. Cái linh thiêng của làng quê yên ả như hội tụ. Cụ Hoàng Văn Quyết, 75 tuổi, thủ từ đền Đa Hòa, người nhỏ thỏ lặng lẽ thắp nhang trước bàn thờ "đệ tam tứ bất tử" lầm rầm khấn vái. Trong khói hương trầm nghi ngút, cụ Quyết lặng lẽ kể sự tích Chử Đồng Tử cho một nhóm SV Học viện Phòng cháy chữa cháy từ Hà Nội về. "Đó là thời vua Hùng Vương thứ mươi tám. Nhà họ Chử ở làng Chử Xá, vợ mất sớm, chỉ có hai cha con sống với nhau. Người con là Chử Đồng Tử, cha là Chử Cù Vân. Đã nghèo lại nghèo hơn khi nhà họ Chử không may gặp hỏa hoạn, cả hai cha con chỉ có một chiếc khố. Người cha chết dặn con giữ lại cái khố mà mặc nhưng người con không nỡ để cha táng trần nên mặc khố cho cha rồi mới táng. Từ đó chấp nhận ban ngày ở nhà, ban đêm đi lội nước kiếm cá để sống...".

Trong suốt câu chuyện, cụ Quyết phải dừng lại tới bốn lần để giải thích những câu hỏi chen ngang. "Chuyện có thật không? Chẳng lẽ cả nhà mà chỉ còn có mỗi chiếc khố? Tại sao Chử Đồng Tử lại nhường cha khi mình cần hơn để sống...". Cụ Quyết chẳng giận vì bị ngắt giữa chừng mà tường tận giảng giải: "Không ai xác định được câu chuyện từ hàng ngàn năm trước. Cũng không ai chứng minh được nó có thật hay không, cha con ngài (Chử Đồng Tử) nghèo như thế nào? Nhưng câu chuyện được lưu truyền từ xưa có mất đâu. Bởi vì chứa đựng trong đó là cái hiếu của con, cái tình của cha. Thử hỏi có ai thương nhau như cha con họ Chử"?

Chữ "hiếu" không phân kẻ giàu - nghèo

Là người gắn bó cả đời người với đền thờ Chử Đồng Tử và làng Chử Xá xưa (nay là xã Bình Minh) nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Văn Kính nói không đơn giản mà khi phục hồi đền thờ Chử Đồng Tử, tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (1862 -1905), án sát bốn tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên triều nhà Nguyễn đã đề bốn chữ "Chí hiếu động thiên" lên trung đường của ngôi đền. Theo ông Kính, quan án sát Chu Mạnh Trinh là người tự tay thiết kế và vận nhân tài, vật lực của nhân dân tám thôn tổng Mễ (xã Bình Minh ngày nay) cùng thập phương công đức để xây dựng, tôn tạo năm 1894 trên nền một ngôi đền cổ. "Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh cũng là người cho rằng Chử Đồng Tử không đơn giản được phong thánh mà lại là thánh bất tử nữa. Đã là thánh thì phải khác phàm nhân hoặc phàm nhân không thể theo kịp mới là thánh. Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh cho rằng chỉ cần chữ "hiếu" là đủ phong thánh cho ngài rồi", ông Kính nói.

Ông Kính cũng giải thích bốn chữ "Chí hiếu động thiên" mà người đời sau phong tặng cho đức thánh Chử Đồng Tử: "Chí hiếu" là cái hiếu đến tận cùng, tận lực với hiếu. Ở đây, người con đã dành những thứ cuối cùng là chiếc khố - một vật tối thiểu của xã hội người Việt cổ khi ra ngoài để chôn cất cha. Thà mình lõa lồ còn hơn để cha trần truồng khi táng cha. Lòng hiếu thảo của người con đã thấu trời xanh (động thiên) khiến cả người và trời khâm phục.

Cũng theo ông Kính, không phải ngẫu nhiên mà hàng ngàn đời nay ở làng Chử Xá  dòng họ nào cũng có nhiều người con hiếu thảo. "Từ họ Hoàng, họ Phạm, họ Chu (những dòng họ lớn) đến những họ nhỏ như họ Nguyễn, họ Trần đời đều nổi tiếng là người hiếu đễ trong vùng dù giàu hay nghèo" - ông Kính nói. Còn theo cụ Hoàng Văn Quyết, hàng năm cụ và Ban quản lý đền Đa Hòa đón hàng trăm đoàn khách toàn là học sinh và sinh viên do các nhà trường khắp cả nước đưa đến giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.

Trung tuần tháng 2 âm lịch, lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung ở đền Đa Hòa diễn ra trong nắng sớm. Bên kia sông, nắng đổ nghiêng trên những bãi cát trắng chạy dài, những đám lau sậy um tùm của bãi Tự Nhiên (xã Tự Nhiên, Thường Tín, Hà Nội).

Kỳ 4: Mối tình "thiên định" và thương nhân đầu tiên của người Việt

< Bãi Tự Nhiên ngày nay là nơi chụp ảnh của nhiều đôi vợ chồng sắp cưới.

Anh Hoàng Văn Phúc và chị Nguyễn Ngọc Linh (nhà phố Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội) đang "chỉnh trang" tạo dáng cho những bức ảnh cưới của mình. "Lý do chọn bãi Tự Nhiên hoang sơ này để chụp ảnh cưới là muốn có một gia đình hạnh phúc như người xưa", Anh Phúc chia sẻ.

Tình yêu "thiên định"

Hàng ngàn năm trước bãi Tự Nhiên là nơi gặp gỡ của một thiên tình sử có một không hai: Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung (con vua Hùng Vương thứ 18, có tài liệu cho rằng là đời thứ ba). Trong cái hoang sơ của thuở hồng hoang, hai con người: một là công chúa sang giàu, quyền thế - một nghèo khó, bấn cùng bắt đầu một mối lương duyên chồng vợ mà đến hàng ngàn đời sau như anh Phúc, chị Linh vẫn còn ngưỡng vọng. "Không biết cảnh xưa nhưng bãi Tự nhiên cách đây ba mươi năm đến giờ không có gì khác. Vẫn là lau sậy um tùm xen lẫn cát trắng tự nhiên. Chỉ có điều lạ là gần đây có rất nhiều đôi vợ chồng sắp cưới đến chụp ảnh, thậm chí đem theo cả hương hoa đến cầu duyên an định", bác Tống Văn Khuê, một lão nông xã Tự Nhiên, cho biết.

Bác Khuê nói vì đạo hiếu mà phong thánh cho ngài (Chử Đồng Tử) là đúng nhưng không đủ. Bởi theo bác Khuê: "Tình yêu của Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, dù là truyền thuyết hay có thật thì trên đời cũng chỉ có một. Đó là tình yêu không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo. Nói cách khác là tình yêu vượt qua tất cả mọi ngáng trở như "thiên định "rồi". Ông Nguyễn Nguyên Anh, một nhà nghiên cứu văn hóa của Hưng Yên, cũng cho rằng: "Cuộc hôn nhân tình cờ giữa hai con người thuộc hai đẳng cấp chênh lệch nhau vời vợi vừa trần tục vừa thiêng liêng. Trong bối cảnh xã hội phong kiến có sự phân biệt gay gắt về đẳng cấp, nó là hiện thân của khát vọng, ước mơ về hôn nhân tự do, bất chấp sang hèn của nhân dân lao động Việt Nam".

Khi bác Khuê kể lại câu chuyện Chử Đồng Tử gặp gỡ và lấy Tiên Dung thì bên kia sông nơi đền Đa Hòa, quang cảnh yên tĩnh nơi đây bỗng khác lạ hẳn. Lễ rước nước để tái hiện mối tình Chử Đồng Tử và Tiên Dung bước vào ngày chính hội (11.2 âm lịch). Những cặp trai gái hóa trang thành Chử Đồng Tử và Tiên Dung được chia thành những cặp đôi tham gia lễ rước  hớn hở và chờ đợi. Theo những người già ở xã Bình Minh (Khoái Châu, Hưng Yên) lễ rước ngoài việc "cầu mát" (mưa thuận gió hòa) cho mùa màng tươi tốt còn là một dịp để lớp trẻ hiểu hơn về mối tình Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung.

Thương nhân đầu tiên của người Việt

< Lễ rước nước tưởng nhớ mối tình thiên cổ.

Theo ông Phạm Văn Kính, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Chử Đồng Tử có thêm một cái nhất là thương nhân đầu tiên của người Việt. "Trong tất cả các thư tịch cổ còn lưu lại đến bây giờ thì việc buôn bán của người Việt cổ chỉ diễn ra từ sau khởi nghĩa Lý Nam Đế (thế kỷ thứ VI sau công nguyên - NV) nhưng trong truyện Chử Đồng Tử lưu truyền thì rõ ràng Chử Đồng Tử là người thương nhân đầu tiên của người Việt cổ". Để minh chứng, ông Kính trích dẫn:" Sau khi cưới, Tiên Dung bèn cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Lâu dần mở mang thành chợ lớn, gọi là chợ Hà Thám, có phố xá khách buôn nước ngoài lui tới giao thương ngày càng phồn thịnh...".

Một tài liệu khác để chứng minh việc người Việt thời Hùng Vương đã tiến hành việc buôn bán cũng phù hợp với việc Chử Đồng Tử là thương nhân đầu tiên, Trịnh Minh Hiên và Đồng Thị Hồng Hoàn - tác giả tài liệu "Thành Lê Nê, tháp ASOKA ở đâu?" viết: "Tiên Dung - công chúa vua Hùng 18 và Chử Đồng Tử gặp một đại thương gia dùng thuyền đi buôn và nói: "Quý nhân bỏ một dật vàng ra ngoài biển mua vật quí, sang năm có thể thành mười dật".

Nhà nghiên cứu Phật giáo Nguyễn Lang cũng đã chứng minh việc giao thương của người Việt cổ cùng thời với Chử Đồng Tử trong cuốn "Việt Nam Phật giáo sử luận". Ông Nguyễn Lang còn nhận định: "Để có hàng cung cấp cho Trung Đông và các nước vùng Địa Trung Hải, đế quốc La Mã, các thương gia Ấn Độ đã dong thuyền về Viễn Đông. Những thương thuyền theo gió mùa Tây Nam đi về Đông Nam Á tới bờ biển Mã Lai, Phù Nam và Giao Chỉ...". "Điều này hoàn toàn trùng khớp với tình tiết Tiên Dung và Chử Đồng Tử mở chợ buôn bán với người nước ngoài. Mặt khác, phố Hiến của Hưng Yên, quê hương của Chử Đồng Tử sau này đã trở thành một thương cảng sầm uất nhất nhì miền Bắc", ông Kính nói. Hai tác giả Đồng Thị Hồng Hoàn và Trịnh Minh Hiên còn cho rằng: Từ việc giao thương mà, Chử Đồng Tử đã đã có duyên gặp với sư Phật Quang kết thành anh em, bỏ nghề đi buôn cùng vợ học phép tu tiên trở thành Phật tử đầu tiên của đạo Phật. Vị thánh thứ ba của "Tứ bất tử" trong tâm linh người Việt trở thành người khai sáng cho Phật giáo Việt Nam.

Không như nhiều người nghĩ, Luy Lâu (Bắc Ninh ngày nay) là nơi khai sinh ra Phật giáo Việt Nam. Những nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo và văn hóa Việt Nam vẫn còn đang tranh cãi về địa danh này. Có học giả nhận định nơi đó là thành Nê Lê (hay Lê Nê) ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Người khác lại nhận định đó là chùa Địa Ngục trên đỉnh Tam Đảo, Vĩnh Phúc. "Bởi con đường Phật giáo ít hay nhiều liên quan trực tiếp nhưng rất quan trọng đến Chử Đồng Tử, người Phật tử đầu tiên của Việt Nam".
Ông Phạm Văn Kính, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian.

Huyền thoại 'miền gái đẹp' Nha Mân.

Mỗi lần có dịp về đây, cánh mày râu thường xì xầm vào tai nhau câu chuyện về vẻ đẹp làm mê đắm lòng người của những cô gái miệt vườn sông nước. 

Có thể nói, ở đâu, khắp vùng ‘gạo trắng nước trong’ này, chúng ta cũng có thế gặp những cô thôn nữ với vẻ đẹp mặn mà trời ban. Vậy nhưng, nơi được coi là ‘vương quốc mỹ nữ’ miền Tây phải kể đến là Nha Mân, một ngôi làng nhỏ nằm yên bình bên bờ sông Tiền đầy mơ mộng.

Nha Mân là địa danh thuộc xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Hàng trăm năm nay, Nha Mân nổi danh là vùng đất có nhiều người đẹp.

Ở ĐBSCL có lẽ câu ca dao “Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh/Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân” là đúc kết khá chính xác về những miền gái đẹp vùng này. Con gái Nha Mân đẹp nhờ sống ở vùng đất trái ngọt cây lành hay đẹp vì là hậu duệ của lớp cung tần mỹ nữ khắp vùng miền hội tụ vẫn chưa có giải đáp thỏa đáng…

Trận thủy chiến trên sông Tiền

Theo những bậc cao niên ở Nha Mân và một số tài liệu ghi lại, khoảng giữa năm 1784 mượn cớ giúp Chúa Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn, khoảng 2 vạn quân Xiêm đã theo hai đường thủy bộ tiến vào địa phận Kiên Giang. Liên quân này có thêm 4.000 lính của Chúa Nguyễn Ánh.

Đến cuối năm 1784, liên quân Xiêm - Nguyễn chiếm được một số vùng đất ở phía tây thành Gia Định. Họ cho đóng quân ở vùng Trà Tân (nay thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) để dự trữ lương thảo, khí tài chuẩn bị đánh thành Mỹ Tho và Gia Định. Lúc này, Chúa Nguyễn Ánh cùng bầu đoàn thê tử hàng trăm người cũng trú tại đây.

Cuối năm 1784, khi liên quân Xiêm - Nguyễn uy hiếp cả thành Mỹ Tho và Gia Định thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ liền đưa 2 vạn quân từ Quy Nhơn xuôi xuống thành Mỹ Tho quyết chiến với quân Xiêm. Sau khi điều nghiên địa hình, Nguyễn Huệ quyết định chọn đoạn sông Tiền từ rạch Gầm đến Xoài Mút dài khoảng 6-7km (nay thuộc địa phận huyện Châu Thành, Tiền Giang) làm chiến trường quyết chiến với liên quân Xiêm - Nguyễn.

Đêm 18/1/1785 (ngày 8 tháng Chạp năm Giáp Thìn), lợi dụng con nước đang xuôi, cả hai đạo thủy bộ quân Xiêm cùng rầm rộ tấn công Mỹ Tho. Khi liên quân Xiêm – Nguyễn vừa lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn, từ hai bờ sông Tiền và dọc bờ cù lao Thới Sơn, các đại bác cùng pháo hỏa hổ của bộ binh Tây Sơn bắn ra uy hiếp dữ dội.

Những chiến thuyền Tây Sơn từ những nhánh rạch nhỏ kéo ra chặn đánh đầu, số khác xông ra đánh vỗ hông nhằm chia cắt đội hình và đánh chặn đường lui, dồn đoàn thuyền của đối phương vào thế tiến thoái lưỡng nan.

Cùng lúc ấy những thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào những chiến thuyền đang rối loạn làm cho số bị chìm, số bị cháy... Trời vừa rạng sáng, thì chiến cuộc cũng vừa dứt. Kết quả là 300 chiến thuyền và gần 3 vạn quân Xiêm - Nguyễn bị phá tan.

Cung tần thành nông dân

Bây giờ giao thông thuận lợi, gái đẹp đi lấy chồng xa nhiều lắm. Trai làng này ít người lấy được vợ Nha Mân thành ra phải lấy vợ xứ khác, con cái sinh ra tuy vẫn còn đẹp nhưng không được như trước nữa...

Chúa Nguyễn Ánh cùng bầu đoàn thê tử và một ít tùy tùng đang đóng quân ở Trà Tân nghe tàn quân báo hung tin thất trận vội quay thuyền chạy theo sông Tiền tìm đường thoát thân. Bị quân Tây Sơn truy đuổi gắt gao, hàng trăm cung tần mỹ nữ chân yếu tay mềm bỗng chốc trở thành “của nợ”. Nhiều người trong số này chịu đựng không nổi cực khổ trên đường trốn chạy nên Chúa Nguyễn Ánh đành gạt nước mắt, bấm bụng bỏ lại hàng trăm cung tần mỹ nữ dọc đường.

Để “nhẹ gánh loạn ly”, những mỹ nhân được ban cho ít vàng bạc rồi lên tá túc ở các làng bên bờ sông Tiền, nay thuộc Nha Mân (Châu Thành, Đồng Tháp) và cù lao Ông Chưởng (Chợ Mới, An Giang). Theo lời kể của các cụ cao niên, những nhan sắc khuynh nước khuynh thành này nói đủ các giọng ở nhiều vùng miền, nhưng lại hiếm người miền Tây Nam Bộ.

Ông Tám Khai - một người sống gần cả thế kỷ bên bờ Nha Mân cho rằng, chính nhờ nguồn “gen” cung phi mỹ nữ lưu truyền mà xứ Nha Mân mới có nhiều thiếu nữ đẹp như hôm nay. Tương truyền, những mỹ nhân bị “bỏ rơi” đều lấy chồng là người địa phương, trở thành nông dân nhưng con cái do họ sinh ra đều đẹp như tiên đồng ngọc nữ.

Theo nhận xét của nhiều người, nhóm mỹ nữ dạt vào cù lao Ông Chưởng cũng lấy chồng, cũng tạo được một “miền gái đẹp” nhưng không nổi tiếng bằng con gái Nha Mân. “Hồi nhỏ, tôi nghe ông bà kể lại người đẹp xứ Nha Mân đếm không kể xiết. Khoảng đầu thế kỷ thứ 20, các vua xứ Cao Miên mang vàng bạc châu báu xuôi dòng sông Tiền sang tận “miền gái đẹp” Nha Mân để tìm ý trung nhân” - ông Tám Khai quả quyết.

Người Nha Mân vẫn tự hào vì đàn bà xứ này đẻ 10 đứa con gái thì hết 9 đứa là người đẹp, đứa còn lại cũng trên trung bình. Trong những ngày xuân, trên những con đường dọc theo các bờ kênh, bờ rạch đi dọc hai bờ rạch lúc nào cũng nườm nượp đàn bà con gái đẹp quần là áo lượt muôn màu sắc ngược xuôi, kẻ vào trong ngọn, người ra ngoài vàm thăm viếng thân nhân, bạn bè, nhìn không chán mắt.

Nhưng khi mà cuộc sống đang có những thay đổi chóng mặt, hòa chung trong dòng chảy xã hội của đất nước, những người con gái Nha Mân cũng theo nhau lên thành phố, sang nước ngoài theo tiếng gọi của cuộc sống mưu sinh. Họ có thể là một cô dâu xứ Hàn giàu sang, một công nhân chăm chỉ trên đất Sài thành hoa lệ hay một trong hàng ngàn số phận của những người con gái khác.

Chính điều này đã làm thất vọng không ít những khách đường xa và cả chính những chàng trai nơi đây nếu có ý định chiêm ngưỡng nhan sắc con gái Nha Mân. Có lẽ, như anh Tâm, chủ quán cà phê cóc chúng tôi ngồi lúc nãy nói, giờ, muốn ngắm con gái Nha Mân có lẽ phải ra cổng trường trung học ngoài ngã ba kia may ra mới có chứ không thì…

Du lịch, GO! - Theo Datviet, Tamtay và nhiều nguồn ảnh khác.

Ảnh ảo giác + 3D

Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge

Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Con voi này mấy chân hả các bác
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge

Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge
Click here to enlarge

Bí mật thân phận thật của nàng Mona Lisa

Trước khi những bí mật về nàng Mona Lisa được hé mở, đã có nhiều giả thiết về thân phận thật của nàng, thậm chí có người cho rằng nàng là người tình bí mật của danh họa Leonardo da Vinci.
Bí mật thân phận thật của nàng Mona Lisa
Hiện bức chân dung nàng Mona Lisa đang được trưng bày tại bảo tàng Louvre tại Paris, Pháp.
Nụ cười của nàng đã khiến hàng triệu người trên thế giới bị mê hoặc nhưng không ai hiểu được bí mật đằng sau nụ cười đó như thế nào. Nàng là ai, nàng từng sống như thế nào vẫn là một câu hỏi lớn. Tuy nhiên từ sau năm 2005 tới nay, với sự hỗ trợ những công nghệ kỹ thuật cao, bí mật về thân phận của nàng Mona Lisa dần dần được hé mở.
Liên quan tới thân phận thật của nàng Mona Lisa, vài trăm năm trước đã có nhiều cách giải thích khác nhau, có người nói rằng nàng là mẹ của danh họa Leonardo da Vinci, có người lại nói nàng là người tình bí mật của ông, hay Mona Lisa là gái làng chơi ở thành Florence tuy nhiên giả thiết Mona Lisa là bức chân dung tự họa của Leonardo da Vinci được nhiều người đồng tình nhất.
Vào thế kỷ 16, nhà sử học nghệ thuật nổi tiếng- Vasari nói rằng nàng Mona Lisa là vợ của một thương gia giàu có ở Florence nhưng quan điểm của ông không được nhiều người quan tâm. Tới năm 2005, chuyên gia nghiên cứu bản thảo trường đại học Heidelberg (Đức) cho biết đã tìm thấy chứng cứ quan trọng trong đống sách cổ ở thư viện, một cuốn sách cổ năm 1503. Chủ sở hữu cuốn sách này là một người bạn tốt của Leonardo da Vinci-Vespucci.
Trên cuốn sách có dòng chữ mà Vespucci viết vội: "Leonardo da Vinci đã sáng tạo ra ba bức họa nổi tiếng, trong đó có một bức họa là chân dung Gherardini". Điều này trùng với tuyên bố của Vasari thế kỷ 16. Ông từng nói "vợ của Francesco del Giocondo" là Gherardini, tên đầy đủ là Lisa Gherardini del Giocondo, trong đó del Giocondo là họ chồng bà.
Sau hai năm, thư viện Đại học Heidelberg cho rằng phát hiện của tiến sỹ Giuseppe Pallanti đã khiến những giả thiết về thân phận của nàng Mona Lisa bị loại bỏ cũng như mở ra những bí ẩn về nàng trong suốt mấy trăm năm.
Mona Lisa sinh ngày 15 tháng 6 năm 1479 trong một gia đình từng định cư lâu đời ở thành phố Florence, là con cả trong số 7 anh chị em. Khi đó, cả châu Âu đang bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ Phục Hưng, là một trong những thành phố lớn nhất, Florence được coi là biểu tượng của thành công và giàu có. Tuy nhiên, cuộc sống của những người dân ở đây lại không đẹp như những gì mà thơ ca ca ngợi vì sự phân biệt giàu nghèo quá lớn. Lisa xuất thân trong một gia đình quý tộc nhưng theo thời gian, gia đình nàng cũng mất dần sức ảnh hưởng của mình.
Ngày 5 tháng 3 năm 1495, Lisa đi lấy chồng khi nàng tròn 16 tuổi. Chồng nàng là một thương gia tơ lụa có tiếng trong thành và Lisa là vợ thứ 3 của ông. Của hồi môn của Lisa là 170 đồng vàng Florin và một nông trang ở vùng ngoại ô. Cuộc hôn nhân này đã khiến địa vị xã hội của Lisa được nâng cao vì chồng nàng là một người cực kỳ giàu có, không những thế Francesco del Giocondo cũng được lợi từ vợ của mình vì Gherardini là một dòng họ cao quý. Họ đã có với nhau 5 người con.
Ngày 5 tháng 3 năm 1503, Lisa và chồng chuyển tới một căn hộ ở gần Via della Stufa, nơi ông cụ thân sinh của Leonardo - ông Piero da Vinci đang sinh sống. Ông Piero da Vinci và vợ chồng Lisa nhanh chóng trở thành hàng xóm thân thiết của nhau.
Cũng giống như nhiều gia đình giàu có ở Florence, mỗi khi gia đình có sự kiện trọng đại, vợ chồng Lisa và các con lại mời các họa sỹ tới vẽ chân dung kỷ niệm. Năm 1503 là một năm quan trọng đối với gia đình del Giocondo khi họ chuyển tới ngôi nhà mới của mình, hơn nữa Lisa lại mới mang thai đứa con thứ ba. Ông del Giocondo đã mời 4 nghệ sỹ tới nhà để trang trí cho ngôi nhà mới, Leonardo da Vinci, con trai của người hàng xóm mới cũng được mời tới để vẽ chân dung Lisa.
Những năm 1503, Leonardo da Vinci rơi vào tình cảnh khốn đốn, ông không có nguồn thu nhập nào và lời mời tới vẽ chân dung cho một quý bà khiến ông cảm thấy rất phấn khởi và có lẽ đó là động lực để có được một tác phẩm tuyệt vời. Tay phải của Lisa đặt lên tay trái để toát lên vẻ hiền thục và thủy chung của nàng. Bộ đồ mà Lisa mặc rất thời trang, có người cho rằng thần thái của Lisa trên bức tranh còn thật hơn ở ngoài đời.
Bí mật thân phận thật của nàng Mona Lisa
Bản thảo chân dung nàng Mona Lisa
Leonardo da Vinci đã mất 10 năm để hoàn thành bức chân dung nàng Mona Lisa. Nhưng cuối cùng ông đã không giao lại bức họa này cho Lisa. Một số học giả ban đầu nhận định có lẽ vì không được trả tiền thù lao nên Leonardo mới làm thế. Nhưng sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng người ta mới phát hiện rằng nguyên nhân không đơn giản như vậy.
Trên thực tế, trong thời gian ở Florence, Leonardo đã có quan hệ khá mật thiết với gia đình quý tộc Giuliano de Medici. Đây là một trong những dòng họ danh tiếng nhất ở Italy vào thế kỷ 15-16. Gia đình Giuliano de Medici rất đam mê nghệ thuật nên họ đã không ngần ngại bỏ tiền ra để tài trợ cho các nghệ sỹ trong đó có cả Leonardo da Vinci, tuy nhiên khoản tiền này lại là tiền cướp từ mồ hôi, xương máu của người dân thường. Vì thế, các gia đình quý tộc khác ở thành Florence tỏ ra không hài lòng về chuyện này, gia đình Gherardini cũng vậy. Năm 1503, trong lúc Leonardo da Vinci vẽ chân dung nàng Lisa, gia tộc Giuliano de Medici và gia tộc Gherardini đã xảy ra mâu thuẫn lớn. Leonardo da Vinci là người ở giữa nên đành phải cắt đứt quan hệ với gia đình Lisa. Năm 1511, Florence bị quân Giáo hoàng tấn công, gia tộc Gherardini phải sống lưu vong. Trong những năm 1517, Leonardo da Vinci đã phải mang theo bức họa nàng Mona Lisa rời khỏi Florence sang Pháp. Từ đó cũng không ai biết tin gì về nàng Lisa nữa.
Mãi cho tới năm 2007, nhà sử học nghiệp dư Giuseppe Pallanti mới tìm thấy một tờ giấy khai tử đã ố vàng của Lisa Gherardini. Trong tờ giấy khai tử có viết: chồng bà Lisa mất năm 1538, thọ 79 tuổi còn Lisa mất 4 năm sau đó khi 64 tuổi và được chôn cất tại tu viện trung tâm Tuscan.

'Tiếng thét' lập kỷ lục với 120 triệu USD

Bức họa nổi tiếng "The Scream" (Tiếng thét) của danh họa người Na Uy Edvard Munch lập kỷ lục là bức tranh được bán với giá cao nhất thế giới, 120 triệu USD.

Tuyệt phẩm "The Scream" (Tiếng thét) của danh họa Edvard Munch. Ảnh: Telegraph
Bức họa, được vẽ vào năm 1895, đã thuộc về một người giấu tên đấu giá qua điện thoại sau khi nhà đấu giá Sotheby's ở thành phố New York đem ra bán. Mức giá 120 triệu USD của "The Scream" đã vượt qua kỷ lục bức họa "Nude, Green Leaves and Bust" của họa sĩ thiên tài Pablo Picasso với giá tiền 106 triệu USD vào tháng 5/2010.
Trước khi đấu giá, "The Scream" được dự đoán sẽ vượt mức 80 triệu USD và có thể được bán với giá cao bất ngờ.
Phiên đấu giá diễn ra tối qua. Chỉ sau 10 phút với mức giá khởi điểm là 40 triệu USD, tuyệt phẩm của danh họa người Na Uy Edvard Munch đã xác lập kỷ lục mới.
Mức giá ban đầu được hai người đấu giá giấu tên qua điện thoại đưa ra là 80 triệu USD. Sau mấy lần ra giá, bức họa cuối cùng được bán với giá gần 120 triệu USD bao gồm cả phí bảo hiểm của người mua.
Bức họa được doanh nhân người Na Uy Petter Olsen rao bán. Gia đình của Olsen có quen biết với Munch và đã giữ bức họa này từ những năm 1930.
"The Scream" được Munch vẽ ra làm 4 bản, 3 trong số đó được đặt ở các bảo tàng. Tuy nhiên hai bức đã bị trộm khi đang được trưng bày và hiện đã được phục hồi.
Telegraph đưa tin bức họa được bán đấu giá ngày hôm qua là bức duy nhất thuộc về một cá nhân và được xem là bức được săn lùng nhiều nhất do trên đó có bài thơ chính tay chủ nhân của nó viết về bức tranh.
Bài thơ được tạm dịch: "Tôi đang đi trên đường cùng với hai người bạn. Lúc đó là hoàng hôn, bầu trời bỗng chuyển sang màu đỏ như máu. Bỗng tôi thấy chán nản. Tôi đứng lại, cảm giác mệt mỏi vô cùng. Cả thành phố như chìm trong máu và lửa. Các bạn tôi đã đi trước, chỉ còn lại mình tôi run rẩy và sợ hãi. Tôi nghe như có tiếng thét lớn trong thiên nhiên - EM".
"The Scream" là một trong những tác phẩm nghệ thuật mang tính hình tượng nhất thế giới. Nó tạo nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ khác trên thế giới trong đó có họa sĩ lừng danh người Mỹ Andy Warhol. Nhiều bộ phim kinh dị cũng ra đời dựa trên bức họa này, trong đó có cảnh kẻ giết người đeo một chiếc mặt nạ với hình khuôn mặt đang la hét.

 

Hướng dẫn du lịch Cà Mau


Ai nghĩ đến Cà Mau cũng đều nghĩ đến nơi cuối cùng của tổ quốc: Mũi Cà Mau, đến với điểm du lịch Mũi Cà Mau, du khách được thăm cột mốc toạ độ quốc gia, ngắm rừng, ngắm biển, chiêm ngưỡng ráng chiều ẩn hiện trên vùng trời biển bao la.

Mũi Cà Mau là mảnh đất nhô ra ở điểm tận cùng phía Nam của Tổ quốc Việt Nam thuộc địa phận xóm Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, cách thành phố Cà Mau hơn 100 km.

Đất Mũi được nhắc đến như một vùng đất thiêng liêng trong tâm thức người Việt Nam và trong đời, ai cũng ước một lần được đến. Nơi đây có hệ sinh thái rừng ngập mặn rất đa dạng và phong phú.
Còn rất nhiều nơi khác mà du khách không thể bỏ qua khi tới Cà Mau
Vườn chim trong thành phố



Nằm ở Công viên văn hóa (còn gọi là Lâm Viên 19/5), thuộc Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau, cách trung tâm thành phố chừng 2km về phía tây.

Công viên văn hóa có diện tích chừng 18,2ha, ngoài các khu vui chơi giải trí: tượng đài, vườn hoa, cây khế, cụm nhà sàn và ao cá Bác Hồ, Lâm Viên 19/5 còn nuôi nhiều loài sinh vật đặc trưng của rừng ngập mặn: cá sấu, khỉ, kỳ đà, trăn, rắn, ba ba... Đặc biệt, vườn chim là khu vực thu hút đông khách nhất.

Từ nhiều năm nay cứ chiều đến hàng ngàn con chim, cò bay về khu rừng có diện tích chừng 2ha của công viên này. Thời gian sau có một số loài chim khác như mồng, két, le le, vịt nước... cũng lấy nơi đây làm nơi cư ngụ và sinh sản. Khu rừng dành cho chim được mở rộng tới 6ha có rào quây thành khu sinh thái biệt lập, gồm ao nước, rừng cây nhiều tán lá, cây lúp xúp ven hồ, là nơi chim tụ hội, sinh sôi và phát triển ngày càng đông.
Ngoài ra còn 2 vườn chim khác là vườn chim Cà Mau ở huyện Đầm Dơi và vườn chim Ngọc Hiển ở huyện Ngọc Hiển



  •  Vườn chim Ngọc Hiển có diện tích tự nhiên rộng 130ha. Là một trong những sân chim tự nhiên lớn nhất nước. Sân chim Ngọc Hiển có dòng sông Bảy Háp chảy qua cùng với hệ thống kênh ngòi chằng chịt, với thảm thực vật phong phú và xanh tươi quanh năm đã là môi trường thiên nhiên trong lành chưa bị con người huỷ hoại, nơi trú ngụ của các loài chim bay đến hàng năm.

Những địa điểm nổi tiếng khác



Hòn Khoai thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cách đất liền 14,6km, nằm về phía tây nam thị trấn Năm Căn.
Nếu đi tàu 90CV từ Rạch Gốc (cửa ngõ của huyện Ngọc Hiển ra biển Đông), thì chỉ sau 3 giờ vượt biển, du khách đã có thể chiêm ngưỡng được Hòn Khoai - một trong những hòn đảo đẹp nhất miền cực nam của Tổ quốc.



Thuộc xóm Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, cách Tp. Cà Mau 50km đường thủy. Hòn Đá Bạc có diện tích 6,43ha, là cụm đảo đẹp gồm ba đảo nằm sát bờ biển.
Hòn đá Bạc hoàng hôn Hòn đá Bạc hoàng hôn
Trên đảo có nhiều cảnh đẹp như sân Tiên, giếng Tiên, bàn chân Tiên, bàn tay Tiên, chùa Cá Ong trong một hệ sinh thái thực vật phong phú.
Đảo Đá Bạc là một trong những điểm du lịch đẹp của Cà Mau



Rừng U Minh nằm sát vịnh Thái Lan, thuộc hai tỉnh Kiên GiangCà Mau, là kiểu rừng rất đặc thù, được xếp hạng độc đáo và quí hiếm trên thế giới.

Rừng U Minh gồm phần trên là U Minh Thượng, phần dưới là U Minh Hạ. Giữa U Minh Thượng và U Minh Hạ là sông Trẹm và sông Cái Tàu. Nơi đây thiên nhiên hùng vĩ và hoang sơ.

Rừng U Minh được coi là nơi có giá trị sinh khối cao nhất so với các kiểu rừng với khoảng 250 loài thực vật, chủ yếu là cây tràm mọc khắp nơi, hơn 180 loài chim, hơn 20 loài bò sát... Sinh cảnh của rừng U Minh còn là hiện trường và hệ quả của tiến trình diễn biến động thái của những hoạt động kiến tạo địa chất.
U Minh U Minh
Du khách cũng có thể đến những địa điểm mang tính tâm linh như Chùa Quan Âm ở phường 4, thành phố Cà Mau, hay đình Tân Hương ở xã Lý Văn Lâm.

Cuối cùng, bạn hãy mua một ít đặc sản của Cà Mau về làm quà cho gia đình và bạn bè , Cà Mau có những đặc sản sau


Đến Cà Mau không chỉ để chu du ngắm cảnh mà còn là mong ước của rất nhiều người được một lần đến với nơi cuối cùng của tổ quốc, để được biết rằng đất nước ta xinh đẹp như thế nào, 4 cột mốc ở 4 cực của Việt Nam luôn là mục tiêu hàng đầu của những người say mê du lịch. Và miền cực Nam vẫn luôn chờ bạn phía trước.