Văn Miếu
là nơi thờ Khổng Tử - người được xem là “khai sáng” của Nho giáo. Sự
hình thành các Văn Miếu chính là biểu thị của tư tưởng chủ đạo trong
việc tôn vinh truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc ta.
Văn Miếu Quốc Tử Giám - Hà Nội
Mỗi dịp Xuân về, người dân khắp nơi háo hức đến dâng hương tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám
Đây là Văn Miếu đầu tiên của nước ta,
được vua Lý Thánh Tông cho xây dựng tháng 10/1070. Năm 1076, Lý Nhân
Tông cho lập Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu, có thể coi đây là trường
Đại học đầu tiên ở Việt Nam.
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xem
như là biểu tượng của tri thức, của nền giáo dục Việt Nam. Đây là nơi
thờ phụng các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho và Tư nghiệp Quốc Tử
Giám Chu Văn An - người thầy tiêu biểu về đạo cao, đức trọng của nền
giáo dục Việt Nam.
Quần thể di tích gồm: Hồ Văn, Vườn Giám và Khu nội tự. Văn Miếu - Quốc Tử Giám thiết
kế bởi nhiều lớp nhà và lớp cửa cách nhau 5 cái sân: Tam quan qua sân
thứ nhất. Đại trung môn có hai cổng nhỏ vào sân thứ hai. Khuê Văn Các có
hai cổng nhỏ vào sân thứ ba. Tiếp đến là Hồ Thiên Quang Tĩnh và Cửa Đại
Thành vào sân thứ tư. Khu chính của Văn Miếu gồm hai nếp nhà
chính cách nhau cũng bằng cái sân, mái lợp ngói cổ. Nếp nhà trong là
Chính tẩm thờ Khổng Tử và học trò. Khu nhà Đại Bái hai bên tả, hữu treo
thờ tranh vẽ tiên hiền, tiên Nho. Qua sân thứ năm là nhà Thái Học (thờ
cha, mẹ Khổng Tử). Đây là nơi
lưu danh các bậc hiền tài qua các khoa thi, thể hiện ở 82 tấm bia tiến
sĩ (được UNESCO công nhận là Di sản Ký ức nhân loại năm 2010). Cứ sau
mỗi khoa thi từ năm 1442 đến 1779, người xưa lại dựng lên các tấm bia đá
trên lưng rùa, khắc tên những người đỗ đạt.
Ngày nay, đây là
nơi Nhà nước tổ chức trao các học hàm, học vị giáo sư, viện sĩ, tiến sĩ
cho những trí thức, là nơi khen tặng cho học sinh, sinh viên xuất sắc
và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày Rằm tháng Giêng. Đặc
biệt, trước mỗi kỳ thi, các sĩ tử đến đây “xin lộc”, “cầu may” . Mỗi dịp
Xuân về, người dân khắp nơi háo hức đến dâng hương tại Văn Miếu
với mong muốn học hành tấn tới, “công thành, danh toại”, xin chữ lấy may
trên phố "ông đồ" bên khu vực Văn Miếu. Với kiến trúc cổ xưa và những
giá trị nhân văn độc đáo, Văn Miếu - Quốc Tử Giám chính là gạch nối lịch sử của Hà Nội xưa và nay, góp phần làm giàu thêm kho tàng văn hóa của dân tộc.
Văn Miếu Mao Điền - Hải Dương
Văn Miếu Mao Điền
Văn Miếu Mao Điền được xây
dựng từ thời Lê Sơ (Thế kỷ XV) tại làng Mậu Tài, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm
Giàng, tỉnh Hải Dương. Tên gọi Mao Điền xuất phát từ đặc điểm Văn Miếu xưa vốn nằm trên một vùng đất bằng phẳng có nhiều cỏ lau (Mao: cỏ lau, Điền: ruộng cấy).
Vào thời Tây Sơn (1788 - 1802), Văn Miếu được
hợp nhất với trường thi Hương của tỉnh Hải Dương. Công trình rộng 3,6
ha này được xây dựng theo hướng Nam gồm các hạng mục: Bái đường, Hậu
cung mỗi toà 7 gian, xây theo kiểu chữ Nhị, Đông vu, Tây vu, gác Khuê
Văn, gác Chuông, gác Khánh, đài Nghiên, tháp Bút, Nghi môn, Thiên Quang
tỉnh và Khải thánh thờ thân phụ và thân mẫu của Khổng Tử. Tại đây đã đào
tạo hàng ngàn cử nhân, tiến sỹ Nho học đứng vào hàng đầu cả nước. Nếu
chỉ tính số người đỗ Đại khoa trong 185 kỳ thi (từ năm 1075 - 1919), cả
nước có 2.898 tiến sỹ thì trấn Hải Dương có 637 vị, trong số 46 Trạng
nguyên, Hải Dương có 12 người.
Hàng năm, từ xưa
đến nay, trấn Hải Dương đều tổ chức lễ tế Khổng Tử, các quan đầu trấn,
đầu phủ cùng cử nhân, tiến sĩ về làm lễ trọng thể, nêu cao truyền thống
hiếu học của tỉnh.
Văn Miếu Xích Đằng - Hưng Yên
Nghi môn của Văn Miếu Xích Đằng
Nằm cạnh con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, Văn Miếu Xích Đằng được
biết đến là một di tích quan trọng nằm trong quần thể di tích Phố Hiến,
thuộc làng (thôn) Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh
Hưng Yên.
Công trình được xây dựng vào năm 1832, trước
đây là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn Hưng Yên. Với hơn 400 năm tồn
tại, ghi danh 161 vị đại khoa, Văn Miếu Xích Đằng đã thể hiện tinh thần hiếu học của con người trên mảnh đất “Nhất Kinh Kỳ, nhì Phố Hiến”.
Tam quan (Nghi môn) của Văn Miếu Xích Đằng là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các Văn Miếu
còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng
tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh
sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương. Khu nội tự có
mặt chính quay về hướng Nam, được thiết kế theo kiểu chữ “Tam”, gồm:Tiền
tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng
thiềm điệp ốc”. Khác với Văn Miếu Quốc Tử Giám, Văn Miếu Mao Điền, ở Văn Miếu Xích Đằng
lầu trống được thay bằng lầu chuông. Tiếng chuông và tiếng khánh vang
lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó
cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền Nho
trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của Văn Miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ 18.
Hằng năm, khi mùa xuân về, tại Văn Miếu
tổ chức rất nhiều các hoạt động giao lưu, sinh hoạt văn hóa, lễ hội
truyền thống. Đây cũng là dịp mà người con Hưng Yên nói riêng và các du
khách thập phương kéo về dự hội tại Xích Đằng rất nhộn nhịp.
Văn Miếu Bắc Ninh
Bức bình phong “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn Miếu bi ký” dựng năm 1928 trong Văn Miếu Bắc Ninh
Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng từ thời Lê Sơ ở núi Châu Sơn, huyện Thị Cầu. Sau nhiều lần sửa chữa, tu bổ, năm 1884 Văn Miếu được xây dựng lại, năm 1893 được chuyển về vị trí hiện nay (xóm 10, Đại Phúc, Bắc Ninh).
Kiến trúc Văn Miếu
gồm: Tiền tế (5 gian), Hậu đường (5 gian), Bi đình (3 gian), hai bên
sân trước Tiền Tế là nhà Tả Vu, Hữu Vu. Chính diện có bức bình phong “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn Miếu bi ký” khắc dựng năm 1928. Toàn bộ công trình được xây dựng bằng gỗ lim được bào trơn đóng bén rất tinh tế và cổ kính. Văn Miếu Bắc Ninh
là nơi thờ Khổng Tử, Tứ Phối và 12 tấm bia lưu giữ khoa danh của 677 vị
tiến sĩ quê hương Kinh Bắc xưa. Công trình là đại diện tiêu biểu nhất
cho giá trị truyền thống và sự học vẻ vang của miền đất văn hiến này.
Văn Miếu Vinh - Nghệ An
Miếu Khổng Tử-Vinh (ảnh tư liệu -1929)
Đây có lẽ là công trình được ít người biết đến nhất trong số các Văn Miếu được xây dựng ở Việt Nam, bởi đến nay chỉ còn là phế tích nằm ở phường Hồng Sơn, thành phố Vinh, Nghệ An.
Theo sử sách ghi chép lại, Văn Miếu Vinh ra đời vào khoảng những năm đầu thế kỷ XIX. Văn Miếu
là điểm sinh hoạt văn hóa truyền thống, nơi hội tụ các văn sỹ, Nho sỹ,
các tao nhân mặc khách thành Vinh xưa và các vùng phụ cận. Từ khi có Văn Miếu Vinh,
phong trào hiếu học ở Nghệ An ngày càng phát triển, đạt đến mức trường
thi hương xứ Nghệ trở thành một trung tâm khoa bảng rực rỡ nhất trong
bảy trung tâm thi Hương của đất nước. Theo lời kể của nhiều vị cao niên
sinh sống gần di tích, Văn Miếu ngày đó nguy nga, khang trang, có
nhà Thượng điện, Hạ điện, xung quanh là hồ cá, giếng thiên tĩnh, vườn
cây cảnh và rừng cây. Trải qua thời gian, biến cố thay đổi, nay di tích
chỉ còn lại tòa Đại bái gồm 5 gian, 9 cột gỗ lim, mái trải rui bản lợp
ngói mũi hài... Hy vọng rằng, trong thời gian tới đây, Văn Miếu Vinh sớm được phục hồi, tôn tạo để nối tiếp truyền thống hiếu học trên đất Nghệ.
Văn Miếu Huế
Văn Thánh Miếu ở Huế
Văn Miếu Huế hay Văn Thánh Miếu được xây dựng năm 1808, dưới triều vua Gia Long, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Phú Xuân cũ.
Toàn bộ kiến trúc chính của Văn Miếu đều
được dựng trên ngọn đồi cao gần 3m so với nền đất xung quanh, trước mặt
là sông Hương, phía sau là làng mạc, núi đồi. Các công trình được xây
dựng trong mặt bằng hình vuông: mỗi cạnh chừng 160m, xung quanh xây la
thành bao bọc. Tất cả có 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ, đặc biệt là 32
tấm bia khắc tên 293 vị tiến sĩ thi đỗ trong 39 kỳ thi Hội, thi Đình tổ
chức dưới triều Nguyễn và 4 tấm bia khác. Từ cổng Đại Thành vào bên
trong, chính giữa Văn Miếu là Đại Thành Điện thờ Khổng Tử có cấu
trúc phỏng theo lối trùng thiềm điệp ốc truyền thống của Huế. Hai bên là
Đông Vu và Tây Vu, đều có bảy gian để thờ thất thập nhị hiền và các
tiên Nho. Trước sân miếu có hai nhà bia, bia bên phải khắc văn bia của
Thánh Tổ Nhân Hoàng đế (vua Minh Mạng), bia bên trái khắc bài văn bia
của Hiến Tổ Chương Hoàng đế (vua Thiệu Trị).
Ngoài cổng Đại
Thành, bên trái có Hữu Văn Đường, bên phải có Dị Lễ Đường, là những ngôi
nhà kiểu một gian hai chái dùng để vua quan nghỉ chân sửa soạn lễ phục
trước khi vào tế ở Miếu. Ngoài ra, Văn Miếu còn có các công trình
khác như: Thần trù (nhà bếp), Thần khố (nhà kho), Văn Miếu môn... Các
tòa nhà đều được xây dựng bằng gỗ lim, kiến trúc, trang trí đăng đối, uy
nghi. Văn Miếu đã trở thành một điểm đến tham quan của rất đông du
khách trong và ngoài nước, đặc biệt là các bạn trẻ với mong muốn được
lưu danh bảng vàng như những danh sĩ đã được khắc tên tại các bia Tiến
sĩ ở Văn Miếu.
Văn Miếu Diên Khánh - Khánh Hòa
Văn Miếu Diên Khánh
Công trình văn
hóa được xây dựng từ năm 1853, ở khóm Phú Lộc Tây, huyện Diên Khánh,
đây là nơi thờ Khổng Tử và lưu giữ tên tuổi nhiều nhân tài của Khánh
Hòa. Qua thời gian, Văn Miếu đã được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn
giữ được kiến trúc ban đầu: phía trước có nhà Bi đình, chính giữa có tòa
Tiền đường và Chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các
cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm.
Hiện nay, Văn Miếu Diên Khánh còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức ghi lại quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu và đời sống sinh hoạt, văn hóa, lịch sử của Khánh Hòa. Ngoài ra, ở Bái đường của Văn Miếu Diên Khánh còn
có một bài minh nói về về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào
mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự
Đức. Văn Miếu Diên Khánh còn là điểm liên lạc, dừng chân của các
chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với những giá trị
văn hóa, lịch sử đó, Văn Miếu Diên Khánh đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Văn Miếu Trấn Biên - Đồng Nai
Văn Miếu Trấn Biên
Văn Miếu Trấn Biên
được xây dựng vào đời vua Hiển Tông năm Ất Vị thứ 25 (tức năm 1715).
Công trình được Trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức cho
xây dựng tại thôn Bình Thành và Tân Lại, tổng Phước Vĩnh (nay là phường
Bửu Long, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai).
Theo sách "Ðại Nam nhất thống chí" của Quốc sử quán triều Nguyễn miêu tả, Văn Miếu Trấn Biên được ghi nhận là Văn Miếu được
xây dựng sớm nhất ở miền Nam (mặc dù ra đời sau Văn Miếu Quốc Tử Giám
hơn 700 năm). Khi quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa năm 1861, chúng đã phá
hủy hoàn toàn Văn Miếu Trấn Biên nhằm dập tắt tinh thần yêu nước của người dân Nam Bộ. Đến năm 1998, một công trình mới mang tên Văn Miếu Trấn Biên được khởi công khôi phục lại trên nền Văn Miếu cũ. Nổi bật trong kiến trúc Văn Miếu
là những vòm mái cong, lợp ngói lưu ly màu xanh ngọc bằng gốm tráng
men, có lầu bia uy nghi tráng lệ. Từ cổng vào là nhà bia, Khuê Văn Các,
hồ Tịnh Quang, Tam quan, nhà bia thứ hai và nhà thờ chính. Đặc biệt, bia
tiến sĩ được khắc bằng đá xanh với câu nói nổi tiếng của Thân Nhân
Trung: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia".
Nhà thờ chính
xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái, theo kiến trúc cổ: Đặt bàn thờ Bác
Hồ ở gian giữa, trên tường có biểu tượng trống đồng tượng trưng cho nền
văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương. Trong gian thờ chính có trưng
bày 18kg đất và 18 lít nước mang về từ đền Hùng, biểu trưng cho 18 đời
Vua Hùng, cội nguồn của dân tộc. Trong Văn Miếu Trấn Biên thì đặt
bàn thờ đức Khổng Tử, bàn thờ Quốc tổ và Lịch đại đế vương. Gian bên
trái thờ các danh nhân Chu Văn An, Nguyễn Trãi và Lê Quý Ðôn. Gian bên
phải thờ Võ Trường Toản, Ðặng Ðức Thuật và ba vị anh hào "Gia Ðịnh tam
kiệt": Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Ðịnh.
Văn Miếu Trấn Biên
là nơi bảo tồn, gìn giữ, tôn vinh các giá trị văn hóa - giáo dục từ xưa
đến nay của Nam Bộ nói riêng và của cả nước nói chung. Hàng ngày có rất
nhiều các bạn trẻ và du khách thường xuyên tham quan và viếng lễ tại
đây.
Văn Thánh Miếu - Vĩnh Long
Văn Xương Các trong Văn Thánh Miếu Vĩnh Long
Văn Thánh Miếu Vĩnh Long là một trong ba Văn Thánh Miếu được xây dựng đầu tiên ở Nam bộ gồm: Văn Thánh Miếu ở Biên Hòa, Gia Định và Vĩnh Long, tọa lạc tại làng Long Hồ, nay thuộc phường 4, TP Vĩnh Long.
Khoảng cuối
thế kỷ XIX, các sĩ phu ở Biên Hòa, Gia Định, Định Tường không chịu làm
tay sai cho Pháp và để giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc nên họ đã
rời khỏi Gia Định, Biên Hòa để về Vĩnh Long tỵ địa. Họ đã xây dựng Văn Thánh Miếu
để làm nơi ôn tập cho các sĩ tử và cũng là nơi để hoạt động văn hóa, đề
cao các tiền hiền, giáo dục lòng yêu nước cho nhân dân. Công trình nổi
tiếng này được xây dựng từ năm 1864 và hoàn thành cuối năm 1866 với sự
chủ trì của Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản, Đề học Nguyễn Thông, sự
đóng góp của nhiều đại thần cựu trào cùng sĩ phu và nhân dân ba tỉnh
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Từ đó đến nay, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long được trùng tu, tôn tạo vào các năm 1872, 1903, 1914, 1933, 1963 và 1994. Tuy đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo nhưng Văn Thánh Miếu Vĩnh Long vẫn giữ được vẻ đẹp tôn quý, thanh cao.
Trước cổng đền
là tấm bia ghi văn tài của cụ Phan Thanh Giản, mặt trước nêu lý do dựng
miếu, xưng tụng công đức Thánh Nhân và triều đình, mặt sau dương danh
những người có công. Hai bia khác đứng gần nhau ở phía ngoài nói về
những nhân sĩ, thân hào và người có công trùng tu, cúng hiến cho Văn Thánh Miếu. Hai công trình quan trọng ở khu di tích này là Khổng Thánh Miếu và Văn Xương Các.
Trong năm, Văn Thánh Miếu
có các ngày lễ lớn: Tế Khổng Tử và các vị Thánh hiền vào ngày Xuân Đinh
và Thu Đinh (ngày Đinh đầu tháng Hai và ngày Đinh đầu tháng Tám). Ngày
lễ giỗ Phan Thanh Giản (mùng bốn và mùng năm tháng Bảy), ngày giỗ các
quan đại thần (12 và 13 tháng Mười Âm lịch). Đến với Lễ hội Văn Thánh Miếu
hằng năm là để trải lòng thành kính các bậc tiền nhân, yêu quý hơn
truyền thống yêu nước và cảm nhận nét văn hóa cộng cư đặc sắc của người
xưa, cho đến nay và chắc chắn rằng mãi mãi về sau vẫn còn nguyên giá
trị.
Trần Hà Khanh
(Sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét