Nam Định thời tiền sử
Trên
đất Nam Định, dấu tích con người ở thời kỳ này còn lưu lại ở các dãy
núi thuộc huyện Vụ Bản và huyện Ý Yên nằm về phía tây bắc của tỉnh. Tại
đây đã tìm thấy những chiếc rìu đá có vai mài lưỡi, các hòn nghè, chày
đá và bàn nghiền. Đó là những dấu tích của những cư dân thuộc thời kỳ
đồ đá mới hoặc sơ kỳ đồ đồng đã từ vùng rừng núi tiến xuống khai phá
vùng đồng bằng ven biển để sinh sống và dần dần tiến tới lập các làng
xóm. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ đồ đá, ở tỉnh Nam Định cũng như nhiều
địa điểm khác trên đất nước, đã nở rộ những nền văn hoá nguyên thuỷ.
Ngoài kinh tế hái lượm những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên, người nguyên thuỷ trên đất Nam Định đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Tỉnh
Nam Định nằm về phía nam đồng bằng châu thổ sông Hồng. Huyện Vụ Bản và
các huyện Ý Yên, Mỹ Lộc, Nam Trực, thành phố Nam Định là các địa phương
nằm về phía bắc tỉnh thuộc vùng đất cổ, đất đai tương đối ổn định và
không màu mỡ bằng đất đai của các huyện phía nam. Địa hình huyện Vụ Bản
không hoàn toàn bằng phẳng. Dọc phía tây huyện có dãy núi đất lẫn đá,
chạy từ bắc xuống nam với sáu ngọn núi Ngăm, núi Tiên Hương, núi Báng,
núi Lê, núi Gôi và núi Hổ.
Vụ
Bản nằm kẹp giữa sông Đào và sông Sắt chạy dài theo hướng Bắc Nam. Sông
Sắt còn gọi là sông Ba Sắt hay sông Kim Xuyên, nối liền giữa sông Châu
với sông Đáy. Sông Đào ở phía đông của huyện, một đầu nối với Sông Hồng
và cũng đổ ra sông Đáy. Ngoài ra trong các huyện còn có các con sông nhỏ
là sông Vĩnh Giang và sông Cốc. Các con sông này đều là đường thuỷ quan
trọng của huyện Vụ Bản nối liền giữa sông Đáy với sông Hồng ở nhiều
ngả. Chính vì vậy, mảnh đất này được hình thành trong quá trình biển lùi
từ hàng vạn năm về trước và do phù sa sông Hồng và sông Đáy bồi đắp
nên.
Thành
tựu khảo cổ học trong những năm gần đây đã chứng minh tất cả những quả
núi ở huyện Vụ Bản đều có dấu vết con người nguyên thuỷ sinh sống. Họ ở
trên các bãi rộng ven chân núi hoặc các gò đống cao, khi cần tránh bão
lụt thì vào cư trú trong hang động. Họ sống thành từng cộng đồng, dần
dần lập thành đơn vị tự cu giốnh như các bản làng gần nơi sản xuất
Núi
Gôi thuộc địa phận xã Tam Thanh, cách núi của Kim Thái khoảng 2km. Đây
là một qủa núi nằm đơn độc nổi lên giữa đồng bằng, có độ cao 60m và có
chiều dài 500m theo chiều bắc – nam. Núi Gôi án ngữ đường 10 và đường
56. Cho đến nay, người ta vẫn còn lưu truyền câu cửa miệng “Côi Sơn hải
khẩu” (Cửa biển núi Gôi). Tại đầu núi phía tây bắc trước đây có đền thờ
Độc cước vị thần chuyên giúp dân đi biển được bình an. Tại chân núi đã
tìm thấy một số rìu có vai, cuốc có vai và bôn tứ diện. Tất cả các công
cụ này đều được mài nhẵn toàn thân, chế tác từ loại đá badan và đá trầm
tích hạt mịn có vân vàng sẫm.
Các
công cụ này chuôi đều ngắn, thân dài hình chữ nhật, vai gần ngang, có
chiếc hai vai bị lệch. Đây là loại hình phổ biến trong các di tích thuộc
giai đoạn cuối đá mới và buổi đầu kim khí ở ven biển phía bắc Việt Nam.
Hiện
nay, ở núi Gôi chưa tìm thấy dấu vết tầng văn hoá, nhưng căn cứ vào vị
trí phát hiện các di vật đá có thể đoán định tầng văn hoá sẽ nằm ở phía
tây núi Gôi, nơi đã bị phá do quá trình khai thác đá và cát trong nhiều
năm vừa qua.
Qua
điều tra khảo cổ học trong tháng 7 – 2001 ở núi Ngô Xá và núi Phương
Nhi, bước đầu đã phát hiện được một số di vật đá mới. Tại đây, đã tìm
thấy một chiếc rìu còn nguyên vẹn hình thang có hai vai vuông nhưng
không cân đối. Rìu được làm từ loại đã mịn màu gan gà, mài nhẵn toàn
thân, chưa xoá hết dấu vết ghè đẽo. Đây là chiếc rìu khá hoàn thiện từ
chất liệu cũng như kỹ thuật chế tác. Trên đỉnh núi Phương Nhi cũng đã
tìm thấy một chiếc rùi đá hình thang cân, làm bằng đá màu xám mốc, mài
nhẵn toàn thân, lưỡi bị mẻ.
Trong
tất cả các di chỉ văn hoá nằm rải rác tại các quả núi ở huyện Vụ Bản
đều phát hiện được nhiều đồ gốm làm bằng bàn xoay. Đó là những thứ đồ
dùng hàng ngày như nồi, niêu, vò, hũ, bát và những đồ đựng khác. Trên
nhiều đồ gốm đã có trang trí hoa văn. Người xưa đã biết buộc dây vào
chiếc bàn dập rồi dập lên gốm khi đất còn ướt hoặc dùng que nhọn vạch
lên đồ gốm những hình trang trí mà ta thường gặp ở phần vai hay phần cỏ
của đồ đựng gạch. Trong kỹ thuật, người ta pha nhiều cát thô vào đất sét
để làm gốm. Những loại gốm này có loại xốp và có loại chắc.
Có
một hiện tượng lạ là mặc dù vào thời kỳ đó, vùng này nằm gần biển,
nhưng chưa hề phát hiện được một đống vỏ sò, vỏ hến nào. Đây là điểm
khác biệt với các cư dân ven biển ở các nơi khác.
Như
vậy là vào cuối thời đại đá mới khoảng 5000 – 6000 năm cách ngày nay,
cùng với phần lớn các bộ lạc nguyên thuỷ trên đất nước ta, cư dân cổ
trên đất Nam Định đã tiến đến giai đoạn nông nghiệp trồng lúa nước. Khi
phù sa các con sông dần lấp đầy vụng biển, vùng châu thổ hình thành thì
con người từ rừng sâu, núi cao ở phía Bắc, từ vùng hải đảo phía đông và
ven biển phía nam chuyển tới khai phá đất đai, lập nên làng xóm trên
những doi đất ven sông, ven biển. Với sự phát triển của nông nghiệp dùng
cuốc, chủ nhân các di chỉ văn hoá trên vùng đất cổ thuộc Vụ Bản, Ý Yên
đã cùng với cư dân trên nhiều vùng văn hoá khác của châu thổ sông Hồng
bước vào một thời kỳ lịch sử mới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét