Hải Hậu là huyện ven biển tỉnh Nam Định, hình thành cách đây hơn 5 thế kỷ, có tọa
độ địa lý khoảng từ 20,00 đến 20,15 vĩ độ Bắc và 106,00 đến 106,21 kinh
độ Đông. Phía Đông giáp huyện Giao Thủy. Từ Tây Bắc xuống Tây Nam huyện
là sông Ninh Cơ, tiếp giáp với huyện Trực Ninh và Nghĩa Hưng. Phía Bắc
giáp huyện Xuân Trường. Điểm cực Bắc là Trại Đập xã Hải Nam, phía Nam là
biển Đông- Điểm cực Nam là mũi Gót Chàng. Diện tích 226km2, dân
số hiện nay 294.216 người, trong đó đồng bào theo đạo công giáo trên
40%, được phân bố ở 32 xã và 3 thị trấn. Mật độ trung bình 1.301
người/km2.
Lịch
sử hình thành và phát triển mảnh đất, con người Hải Hậu là quá trình
lao động cần cù, sáng tạo để khẩn hoang lấn biển, mở đất khởi nghiệp bắt
đầu từ mảnh đất Phú Cường đến xã Quần Anh và ngày nay là huyện Hải Hậu
anh hùng.
Đó
là kết tinh cao độ trí tuệ, mồ hôi, công sức và cả máu xương của bao
thế hệ người Hải Hậu. Đó còn là một quá trình lịch sử từ không đến có,
từ nhỏ đến lớn; từ hoang vu sơ khai lạc hậu đến văn minh hiện đại. Nhạc
sĩ Vũ Minh Vĩ đã đúc kết trong đoạn ca từ: “… Ông cha mình nằm gai nếm
mật, chân lội sình đầu đội tay bê, để bây giờ rực sáng một vùng quê…”.
Năm Quang Thuận thứ hai (1461), vua Lê Thánh Tông
ban hành các chính sách khuyến nông, cụ Trần Vu cùng bàn với các đồng
liêu Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập từ Tương Đông đưa quyến thuộc xuống bãi
bồi Lạch Lác xin trưng khẩn. Được triều đình chấp thuận, phong cụ Trần
Vu chức Doanh Điền phó sứ, đứng ra chiêu tập dân đinh, tổ chức lực lượng
mở đất.
Theo gia phả dòng họ Vũ ở Tương Nam, lập từ thời Lê Vĩnh Trị (1676 -1679) do
nhất trường Vũ Văn Tần lưu giữ thì “các cụ Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia,
Phạm Cập để lại 1.000 mẫu ruộng ở Tương Đông cho các ông Trần Lang
Tướng, Đoàn Đô Quan, Nguyễn Chiêu Thảo coi giữ, lại xuống phía nam Trấn
Sơn Nam trưng khẩn một bãi bồi phù sa ven biển”.
Ban
đầu, các cụ đưa gia đình xuống ở bên đất Xối nước phía Bắc Lạch Lác
(Xối nước có nghĩa là góc đựng nước của sông Hồng. Tên gọi lấy chữ “Xối”
giống như địa danh các vùng quê cũ: Xối Đông, Xối Tây, Xối Trì, Xối
Thượng…) do đất của một nhà họ Nguyễn nhượng lại, diện tích 19 mẫu, 9
sào, 3 thước Bắc Bộ (ngày nay nhân dân vẫn thường gọi vùng đất này là
đất cầu ông Vu, hay cầu Ngô), làm chỗ trú chân. Ngày ngày, phụ nữ ở lại
chăm sóc con cái, bếp núc, còn trai tráng đẩy thuyền sang bãi đào đất
đắp vùng, chiều tối mới trở về. Nhân dân đã phải bỏ rất nhiều công sức,
thời gian san đắp, vượt nền, dựng nhà. Dành khu đất cao trồng cấy, đào
kênh mương dẫn nước, thau chua, rửa mặn, đến khi thành thổ cư mới đưa
gia đình từ Xối Nước sang ở. Khu đất này đặt tên là Phú Cường (nay ở
phía Nam liền kề Âu Múc cũ, xóm 6 xã Hải Trung). Đến
đây, giai đoạn thăm dò, lập đất đứng chân trưng khẩn bãi bồi Lạch Lác
của bốn dòng họ Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập đã hoàn thành, mở
đầu cho quá trình tạo lập làng xã sau này.
Năm
1486 (Bính Ngọ, Hồng Đức thứ 17) triều đình ra lệnh cho các phủ, huyện
xã rằng: “Nơi nào có ruộng đất bỏ hoang ở bờ biển mà người ít ruộng tình
nguyện bồi đắp để khai khẩn nộp thuế thì phủ, huyện xét thực cấp cho
làm" [1]
Từ thời điểm này, cụ Trần Vu cùng các cụ Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập đẩy mạnh công cuộc khai khẩn bãi bồi Lạch Lác.
Đất
đai tiếp tục san lấp, mở rộng sang phía Tây và phía Nam Lạch Lác. Quyến
thuộc các dòng họ cùng dân ly tán các xã phía Bắc kéo về ngày một đông.
Đất Phú Cường trở nên chật hẹp, dần dần nhà cửa dựng nên rải khắp trên
các ngọn cồn từ cửa Múc đến đầu sông Trệ. Xen kẽ với dân khẩn điền, cụ
Hoàng và thân tộc ở khu cồn Cao (nay gọi là Cồn họ Hoàng). Cụ Trần, cụ
Vũ ở khu cồn Bồ Đề (nay là xóm Bồ Đề Hải Anh). Cụ Phạm ở khu cồn Cát,
sát đê sông Lác, phía Tây xóm Bồ Đề. Bốn vị đứng đầu các dòng họ phân
công nhau phụ trách từng công việc. Trần Vu lo tổ chức lực lượng khẩn
hoang. Vũ Chi phụ trách công việc kiến thiết, trị thủy. Phạm Cập chuyên
giấy tờ, sổ sách, đo đạc ruộng đất dinh điền. Hoàng Gia mở trường dạy
học. Đến cuối thế kỷ XV các cồn đất bãi bồi, phía Bắc giáp sông Ninh Cơ
ngày nay đã được san lấp liên kết với nhau thành ấp dân cư. Các cụ đặt
tên là Cồn Ấp. Lạch Lác chảy mạnh đổi tên thành sông Cường Giang. Nhân
dân đắp đê Cường Giang ngăn lũ, đồng thời đắp đê Hậu Đồng, trấn giữ phía
Nam ngăn nước mặn (đê ở phía Nam sông Múc 2, đoạn chảy từ Hải Trung
sang Hải Anh ngày nay). Cồn đất cao san xuống bãi đất trũng. Sông Múc
hình thành lấy nước từ Cường Giang về tưới tiêu, thau chua rửa mặn cho
đồng ruộng.
Nối tiếp Tứ tính là Cửu tộc: Lại, Nguyễn, Lê, Bùi, Phan, Đoàn, Đỗ và Trần, Vũ phái khác lần lượt cùng về mở đất.
Từ
Cồn Ấp, đất đai khẩn tiếp những vùng đất mới đều lấy chữ “Phú”, chữ
“Cường” đặt tên. Đất “Phú” mở dần như Thượng Phú (Xóm Thượng), Phú Nghĩa
(xóm Phe Nhì, Mộc Tây), Phú Mỹ (xóm Phe Tư), Phú Sâm (xóm Sách Sâm)
(nay thuộc địa phận xã Hải Trung). Đất “Cường” mở rộng như Đông Cường,
Tây Cường, Nam Cường, An Cường, Trung Cường, Ninh Cường…
Lúc
này đồng đất đã rộng, người đã đông, để giữ gìn mốc giới khu khai khẩn
với Quần Mông và ngăn nước mặn biển Đông tràn vào, nhân dân tập trung
lực lượng đắp đê Đông. Theo “Quần Anh địa chí”, đây là đê chống mặn có
vị trí quan trọng nhất, từ Bắc tới Nam
hơn nghìn thước. Tương truyền chân đê nguyên là cát non, đắp rồi lại
vỡ, sau phải từ chân đê đào thành đường hào, rồi chuyển đất thịt nơi
khác đắp vào lòng hào để làm chân đê, từ đó đắp dần lên mới hoàn thành
được.
Từ Đông sang Tây lại đắp đê Đồng Mục, ngăn nước mặn phía Nam, thân đê cấy dứa dại, tầm xuân, dứa gai chắn cát và ngăn trâu bò phá hoại.
Thời
Lê Sơ, do những yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, quân sự, kinh tế của
khu vực ven biển và trong điều kiện của một chính quyền Trung ương tập
quyền cao độ, công cuộc đắp đê vùng ven biển Nam Định mới được quan tâm
và triển khai với quy mô lớn nhất từ trước đến đương thời.
Nửa sau thế kỷ XV trên vùng biển Nam
Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả lao động to lớn của
nhân dân Đại Việt, đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một
con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ.
Theo “Tân biên Nam
Định tỉnh địa dư chí lược”: “Tương truyền thời cổ vùng ven biển chưa có
đê bối gì cả, thường xuyên bị nạn nước biển tràn vào phá hoại, thiệt
hại về người và của không sao kể được. Thời Lê niên hiệu Hồng Đức (1470 -
1497) vua ra lệnh xuất công khố đắp lên phía Bắc từ Quảng Yên, qua Hải
Dương, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa đến Nghệ An”. Trên địa bàn Hải
Hậu, qua những dấu tích còn lại thì thấy đê Hồng Đức kéo dài từ Bắc
Nghĩa Hưng sang Ninh Cường gần trùng với trục đường 56 ngày nay đến tận
Hà Lạn, Hội Khê, dấu đê cũ còn lại những dải đất cát đốn cao như khu Nam
Biên, Cồn Cối (Hải Anh, Hải Trung). “Có đoạn như Kiên Trung, Hà Lạn
trông thấy như những núi đất kéo dài"[2].
Đến
đây đê Hồng Đức đã hoàn thành, đê Đồng Mục không còn là đường chắn
sóng. Sông Giữa giữ một vị trí trung tâm cho dân ấp đến ở dọc hai bên
bờ. Đất đẹp, người đông, tứ tính, cửu tộc quyết định đổi tên Cồn Ấp
thành ấp Quần Cường. Thôn, ấp hình thành một qui mô rộng rãi, dân cư hai
bờ sông giữa chia làm 10 giáp (từ Giáp Nhất đến Giáp Thập) cho những
người đến trước ở. Từ Đông sang Tây mỗi giáp một dong, mỗi dong có một
cầu bắc qua sông Giữa để nối liền khu giáp. Riêng cầu Giáp Thập (Phe
Mười) được kiến thiết theo kiểu Thượng gia hạ trì (trên nhà dưới sông).
Cầu Phe Sáu và cầu Phe Ba là 2 cây cầu tống cố, kiến thiết rộng hơn. Các
sách bản cũng dựng cầu đá (Sách Bản Nhất, Bản Nhì, Bản Ba…), cầu gạch,
cầu gỗ, cầu tre, cầu ván, cầu đất… để nối hai bờ. Bốn biên ấp lập thành 4
thôn: Nam Cường, Bắc Cường, Đông Cường, Tây Cường cho những người đến
sau ở và cũng được kiến thiết tương tự như cảnh trí trong làng.
Năm
1511, lập xã Quần Anh, năm 1827 thăng lên tổng Quần Anh. Năm 1619, An
phủ sứ Vũ Duy Hoà lập làng Hà Lạn, năm 1888 thành tổng Kiên Trung. Năm
1829, Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ lập Cửu An-Nhất Phúc, năm 1838 thành
tổng Ninh Nhất. Năm 1864, Tiến sỹ Đỗ Tông Phát mở đất phía đông, năm
1888 thành tổng Tân Khai.
Ngày 27-12-1888, sáp nhập 4 tổng Quần Anh, Kiên Trung, Ninh Nhất, Tân Khai lập huyện Hải Hậu.
Tiếp bước ông cha, con cháu đồng lòng mở đất, năm 1890 lập thêm tổng Ninh Mỹ và năm 1893 lập tổng Quế Hải.
Trải
hơn 5 thế kỷ dựng nghiệp, các Thuỷ tổ đã hun đúc nên tinh thần “Tứ
tính, Cửu tộc” với nét đẹp văn hoá đặc sắc "Nếp nhà nhân hậu, phúc, đức,
cần, kiệm, mây sáng, trời trong, con cháu thảo hiền". Năm 1862, Triều
đình nhà Nguyễn ban tặng mảnh đất con người Hải Hậu biển vàng: "Mỹ tục khả phong" và năm 1867 ban tặng biển vàng "Thiên tục khả phong".
Tiếp
nối truyền thống Thuỷ tổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, từ năm 1929 Hải
Hậu đã có cơ sở Đảng ở Hội Khê Ngoại, sau cách mạng tháng 8/1945 chi bộ
đầu tiên ở Hải Hậu được thành lập, đến tháng 6/1947 thành lập Huyện uỷ.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân Hải Hậu cùng với cả
nước lập nên những chiến công vang dội; trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước đã bắn rơi 13 máy bay, bắn cháy 3 tàu chiến Mỹ; Nhà nước phong tặng
huyện và 9 xã, thị trấn danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang; xã Hải
Quang Anh hùng lao động; 128 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 11 cá nhân Anh
hùng lực lượng vũ trang.
Bước
vào thời kỳ đổi mới cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn huyện nêu cao
tinh thần cách mạng, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, vươn lên hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến
trên 10%. Huyện vinh dự được phong tặng Danh hiệu Anh hùng lao động, Anh
hùng lực lượng vũ trang, 2 Huân chương độc lập; từ năm 1978 đến nay
liên tục giữ vững điển hình văn hoá cấp huyện của cả nước, Công ty Thuỷ
nông là đơn vị Anh hùng lao động.
Lịch sử hình thành và phát triển mảnh
đất, con người Hải Hậu là thành quả đấu tranh kiên cường mở đất và giữ
đất, là khí phách con người mãnh liệt hơn cả bão to, sóng lớn nên biển
phải lùi xa, để lại cho con người ruộng lúa mênh mông, đồng lúa bát ngát
và vườn cây xum suê. Đó là sự đồng cam, cộng khổ, sự cố kết cộng đồng,
tính cần cù, sáng tạo và nhẫn lại. Đó là những truyền thống quý báu kết
tinh từ trí tuệ, mồ hôi và cả máu của bao thế hệ người Hải Hậu để khai
phá, xây dựng và bảo vệ mảnh đất này. Và ngày nay, con người Hải hậu, dù
ở quê hương hay mọi miền của Tổ quốc hay ngoài nước đều nguyện kế thừa,
phát huy trong xu thế hội nhập quốc tế, xây dựng mảnh đất, con người
nơi đây ngày thêm giàu mạnh văn minh.
|
Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012
Lịch sử phát triển huyện Hải Hậu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét