Nguyễn Bổng
Tiếc thay hạt gạo tám xoan
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà
Câu
thơ như một tiếng khẽ thở dài xuyên thế kỷ, thương cho đời Tám xoan
hồng nhan bạc phận. Thiên nhiên thật hào phóng đã ban tặng cho Hải Hậu
miền đất hạ lưu sông Hồng thấm đẫm phù sa, chảy vào tháng sáu đắp qua
tháng mười để di dưỡng cây lúa Tám trên nền canh tác có tầng sinh hoá
đặc biệt. Những cuốn sách quý về văn hoá Hải Hậu đã ghi: Từ thế kỷ XIII
về trước, trong hàng chục loại lúa thơm ngon, nổi trội nhất phải kể đến
Bát xuân. Trong Vân đài ngoại ngữ, nhà bác học Lê Quý Đôn có viết: Lúa
Bát xuân ưa đất thịt, ruộng cao, cây cao bông dài và mềm, hạt thưa nhỏ,
mầu vàng, hạt gạo trắng mùi vị thơm ngon. Sang thế kỷ thứ XIX trong cuốn
Đại Nam nhất thống chí thì Bát xuân đã trở thành Tám xoan.
Thật
không vui khi ta dạo gót khắp Hà thành và các đô thị, cứ chỗ nào có
hàng gạo bán thì ở đó đều trương biển: Gạo Hải Hậu, gạo nếp Hải Hậu, gạo
Tám thơm Hải Hậu, Tám xoan Hải Hậu…Nhưng khi hỏi: Hải Hậu ở đâu? Không
ít người lắc đầu thì nói chi đến thưởng thức Tám xoan Hải Hậu. Ngay các
chợ gạo tại Hải Hậu cũng không ít người mua Tám xoan mà còn nhầm. Nào
Tám ngỗng, Tám duỗi, Bắc thơm số 7…và nhất là gạo Việt hương chiếm. Nếu
khi xát các chủ gạo cho thêm nắm lá tám (loại lá xanh có mùi giống tám)
tôi đồ rằng sẽ có nhiều người nhầm Tám xoan. Do hạt gạo nhỏ, trong, khi
được tắm lá Tám sẽ có mầu trắng xanh và rất thơm, nhưng khi mở vung nồi
xới cơm…Thì hỡi ơi, mất tiền mua lấy bực mình. Và vì vậy, một số người
do cái lợi nhỏ vô hình chung đã đánh mất thương hiệu quý của mình.
Hiện
các nhà khoa học mấy năm qua đã giúp Hải Hậu chọn lọc ghen quý, quy
hoạch vùng sản xuất Tám xoan ở các xã Hải Toàn, Hải Phong, Hải An và các
xã lân cận. Dẫu có chậm nhưng thật đáng mừng và trân trọng lắm. Nhưng
vài trăm ha thì làm gì đã có gạo bán ra chợ kia chứ! Hiệp hội Tám xoan
đang cố gắng mở rộng diện tích sản xuất nhưng rất khó, bởi lúa Tám dài
ngày, lúa thơm lại thu cuối vụ nên sâu, chuột chim phá hoại, chi phí cao
mà năng suất thấp, lợi nhuận không cao bằng thâm canh các giống cây
trồng khác nên nông dân không mặn mà mặc dù cầu luôn vượt cung.
Anh
bạn tôi có ông chú họ tuổi ngoại bát tuần. Nửa thế kỷ xa quê lập nghiệp
và đã trở thành Việt kiều giàu có nay có dịp về thăm quê cha, đất tổ
Hải Tây. Nhớ đất, nhớ người, nhớ tứ thời bát tiết, nhớ nhiều nhiều
lắm…Nhưng ám ảnh nhất vẫn là hương thơm Tám xoan của bữa cơm cúng trưa
ba mươi Tết hàng năm, ông tâm sự vậy. Cái hương Tám xoan như một phần
hồn gửi lại quê ông chưa thể tìm thấy ở mấy chục loại gạo và hơn chục
quốc gia ông đã từng ăn ở nửa thế kỷ qua. Và bây giờ mũi đã thấy thơm
thơm mùi đất, ông lại càng day dứt khôn nguôi nhớ đến Tám xoan và ước gì
tìm lại rồi trút hơi thở nhẹ cũng hể hả, mát dạ mát lòng! Kỳ này anh
giúp tôi được thoả ước chứ? Anh bạn tôi nhận lời một cách biết điều và
thầm nghĩ “chuyện muỗi”. Nhưng dẫu sao vẫn cứ lo lo! Lo bởi ông là một
nhà nghiên cứu khoa học, biết “đào” đâu ra Tám xoan xịn như ông đặc tả.
Nhờ quen thân với mấy bạn vùng sản xuất Tám xoan nên anh cũng mua được
gạo. Mâm cơm cúng 30 Tết năm ấy có nồi cơm Tám, bát thịt đông, dưa hành
và đĩa cá thu kho nước mắm chắt toả hương, hoà quyện mùi hương trầm lan
toả, ấm áp trong lời khấn vái thiêng liêng kinh cẩn trước bàn thờ như
khi mờ, khi tỏ, như trong thời khắc âm dương chả còn cách biệt trong
niềm vui sum họp. Ông chả ăn được là bao nhưng vui lắm. Cứ nhìn nếp nhăn
giãn ra, ánh mắt sáng lên thì cả nhà đều mừng. Còn anh thầm nghĩ: Thật
bõ công sắm sửa! Chờ xong bữa. Ông nâng chén trà nóng nhấm nháp anh mới
ướm hỏi: Giờ thì ông đã thoả nguyện? Anh khẽ ngẩng lên chờ một lời khen.
Ông chú đưa mắt nhìn ra ngoài sân, mưa xuân đang rây bụi nhưng hình như
ông nhìn xa xăm lắm và ôn tồn, thủng thẳng:- Cám ơn anh đã giúp tôi tìm
lại quý vật, nói đúng hơn là một phần hồn mà tôi tưởng chừng không còn
cơ hội. Nhưng dẫu sao tôi cũng phải tâm tình cho cạn nhẽ. Công bằng mà
nói cơm Tám xoan bây giờ không ngon bằng ngày trước.
Anh
có hiểu: Lúa thước hai khoai thước mốt? Do thân cao nhưng mềm, rễ ăn
sâu, cấy trước gặt sau tất cả các loại lúa nên phải cấy thưa, thời kỳ
sinh thực còn phải móc thêm đất vộ gốc chống đổ, cũng do khi trỗ muộn
chỉ còn mình lúa Tám nên gió và côn trùng không thể lai phấn, vì vậy Tám
chung thuỷ bao đời nay vẫn là Tám chứ không xuống bảy, lên mười. Quan
trọng nhất là Tám cấy thưa, quang hợp đẫy nắng, đẫy gió và được bón lót
bởi xác tôm cua cá ốc chết nóng, phân xanh, phân chuồng và đặc biệt di
dưỡng, bồi bổ bằng dòng phù sa mầu mỡ nên lúa khoẻ vàng thân, vàng lá,
sẫm hạt chứ không dùng phân đạm, thuốc sâu, thuốc bệnh, thuốc diệt
cỏ…như bây giờ. Nếu có chút sâu hay cào cào thì đã có các thiên địch là
các vệ sỹ đồng ruộng như ếch nhái, rắn cá, chim chóc săn sóc chu đáo
rồi. Do vậy mà tám xoan cứ tự nhiên mà tích góp hương đất, hương trời
rồi lặng lẽ thơm thảo dâng người đến hết lòng hết dạ.
Thứ
nữa, ngày trước lúa Tám như một thứ sa xỉ nên “quý hồ tinh bất quý hồ
đa”, người ta chỉ thu khi lúa đã chín tới tám phần chứ không thu già.
Năng suất thấp đấy, nhưng hương thơm vừa ở đỉnh điểm, hạt gạo trắng xanh
ăn ngọt và mềm. Khi phơi, không phơi sân nề nắng rát mà thường phơi
bằng sân đất, trên chiếu cói nắng vừa. Bởi vỏ trấu mỏng, lớp màng gạo
càng mỏng, chỉ cần hanh hao của gió, cái nắng vàng như mật ong tráng là
đủ nhiệt cho hạt thóc lim dim trở mình dăm nắng là ngủ say đem cất vào
chum, hòm chờ ngày hoá thân. Làm được thế mới giữ được cái hương, cái
hồn của tám lặn vào, ủ trong phôi, nhũ của gạo. Khi xay giã phải cầu kỳ
hoàn toàn thủ công bằng cối xay tre, cối giã gỗ. Tôi nghe nói, bây giờ
người ta cũng dùng cối gỗ, nhưng lại lắp mô tơ điện. Làm thế khác nào
quả lô máy xát, nó sẽ sinh nhiệt cho gạo nóng lên, om óc, gam thịt thế
là cái linh, cái hương quý sẽ thoát vị theo cái ứng xử tuỳ tiện mà bay
đi. Còn điều này nữa không biết nên vui hay buồn. Nông dân thời @ sướng
thật. Nhà nào cũng nhiều đồ điện, nhưng hạt Tám xoan nấu với nước giếng
khoan trong nồi cơm điện thì còn tệ hơn thổi nồi đồng điếu đem chan nước
cà.
Hạt
Tám xoan ngon nhất là nấu trong niêu đất, đổ nước rua cau ở chum và
không thổi đầy nồi, trước khi nấu nếu nồi mới phải nấu cháo cám của Tám
để chiết cho nhuần. Vừa ráo nước là âm vào tro nóng, cơm vừa chín tới là
bắt ra thưởng thức. Hết Tết rồi mà cái nồi vẫn thơm dài dài khi ta nấu
sang gạo khác.
Ông
còn kể: Bà nội ông thọ ngót chín mươi. Do bệnh trầm không thể ăn được
thứ gì, thế mà chỉ thóc Tám rang, nấu nước, đổ từng thìa đã giúp cụ cầm
cự được tròn hai tháng mới quy tiên thế mới lạ. Hồi ấy chưa có dầu thơm,
hầu hết trẻ con đều được nấu nước lá tám để tắm cho sạch rôm sảy. Lá
Tám xoan còn được hơ qua lửa nấu nước uống để giải cảm, lợi tiểu. Vua
chơi lan, quan chơi trà. Cây địa lan kén đất, kén người trồng đến vậy,
thế mà cứ đất nào trồng được Tám xoan là đất ấy trồng được địa lan quý
sẽ cho bệ bền, tỏi mẩy, đẹp lá, ngồng mập, hoa tươi, hương quý phái
huyền ảo. Rồi cả đến rơm, rạ cũng được nhà nhà cất dành cho những ngày
đông trải ổ. No cơm tấm, ấm ổ
rơm. Sau bữa cơm quây quần trong ổ rơm là có thể lăn đùng ra để hương
tám đưa vào giấc nồng mặc ngoài kia mưa phùn gió bấc, với tôi nó còn
thơm, còn êm, còn ấm đến tận bây giờ…
Thế
đấy! Tôi chưng hửng! Bao giờ cho đến ngày xưa! Bấy lâu tôi cứ tự xưng
là canh điền xịn quê tổ Tám xoan Hải Hậu. Giờ, nghe cụ già xa quê đã nửa
thế kỷ lý giải ở tuổi gần đất xa trời về hương Tám xoan mà bấy lâu đã
nặng lòng mới sáng ra nhiều điều. Phàm cái gì hiếm quý đều rất mỏng manh
dễ mất. Không giữ được hồn Tám xoan người Hải Hậu sẽ có lỗi với tiền
nhân./.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét