Anh Đoàn bên bộ sưu tập đồ cổ
Trong nhóm người chơi cổ vật ở Tây Đô, anh Trần
Quốc Đoàn, 50 tuổi ở phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn - TP. Cần Thơ là
người được mệnh danh “Vua” bình vôi trên đất Tây Đô, vì anh đang sở hữu
bộ sưu tập bình vôi cổ rất độc đáo. Trò chuyện với anh mới biết, “kho
báu” cổ vật anh có được là nhờ vào cơ sở sản xuất tương chao gia truyền
của gia đình. Anh Đoàn cho biết, anh chơi cổ vật cách đây 12 năm. Trong
một lần tình cờ đọc được một tài liệu nói về cổ vật, nhất là tài liệu
của nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển về những giá trị văn hóa của cổ vật
nên rất mê. Từ đó, anh vừa sản xuất chao vừa lặn lội khắp vùng ĐBSCL để
tìm mua cho bằng được những cổ vật xưa của người dân Nam Bộ. Anh cố công
đi tìm từ chỗ những người bán ve chai lông vịt cho đến những cơ sở thu
mua phế liệu những món đồ cổ, chủ yếu là bình vôi mà theo cách gọi linh
thiêng của những cụ bà xưa là “Ông bình vôi”. Vì “Ông” có mặt hầu hết ở
các gia đình người Việt cổ, không những “Ông” giữ cho vôi luôn được dẻo
để giúp các cụ ăn trầu ngon miệng mà “Ông” còn là người chứng kiến bao
thăng trầm của nhiều thế hệ gia chủ”. Bình vôi được sản xuất theo cấp
bậc: gốm sứ xanh trắng, có hoa văn, họa tiết cầu kỳ dành cho chủ cả, bá
hộ; loại trơn tru dành cho dân thường; loại màu xanh có nguồn gốc từ
Trung Quốc dành cho quan lại, địa chủ, có cả những loại được làm bằng
đồng thau.
Bình gốm Cây Mai hình chim dùng trang trí bàn thờ |
Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012
Gặp gỡ vua bình vôi ở Tây Đô
Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012
Núi Thái Sơn
Thái Sơn nằm ở vùng miền trung tỉnh Sơn Đông, vắt
qua hai thành phố là Thái An và Tế Nam. Cuối năm 1987, Thái Sơn
vinh dự được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Có câu truyện truyền thuyết về núi Thái Sơn như sau: Theo người Trung Quốc, mọi vật trong trời đất đều là do một người gọi là Bàn Cổ tạo ra, sau khi Bàn Cổ qua đời, đầu, thân và tứ chi biến thành 5 ngọn núi lớn, đó tức là “ngũ nhạc” nổi tiếng ở Trung Quốc. Thái Sơn nằm ở phía đông chính là đầu của Bàn Cổ hóa thành, bởi vậy Thái Sơn được gọi là “đông nhạc” là đứng đầu trong “ngũ nhạc”.
Có câu truyện truyền thuyết về núi Thái Sơn như sau: Theo người Trung Quốc, mọi vật trong trời đất đều là do một người gọi là Bàn Cổ tạo ra, sau khi Bàn Cổ qua đời, đầu, thân và tứ chi biến thành 5 ngọn núi lớn, đó tức là “ngũ nhạc” nổi tiếng ở Trung Quốc. Thái Sơn nằm ở phía đông chính là đầu của Bàn Cổ hóa thành, bởi vậy Thái Sơn được gọi là “đông nhạc” là đứng đầu trong “ngũ nhạc”.
'Mạng nhện' dưới lòng đất thép Củ Chi
Bằng cuốc, tay đào thủ công, quân dân Củ Chi (TP HCM) đã
tạo nên hệ thống 3 tầng địa đạo dài hơn 250 km, sâu 10 m dưới lòng đất.
Từ đây, quân giải phóng bất ngờ đánh phá địch, làm nên những chiến công
lẫy lừng.
Từ năm 1948 đến 1968, từ căn cứ cách mạng cách trung
tâm Sài Gòn 70 km về phía Tây Bắc, quân kháng chiến nhiều phen xuất quỷ
nhập thần, gieo bao nỗi kinh hoàng cho kẻ địch.
* Khám phá địa đạo Củ Chi * Cuộc sống thời chiến dưới địa đạo* Clip thăm địa đạo dưới lòng đất |
Theo Ban Giám đốc Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi,
công trình hệ thống ngầm này ghi dấu bao công sức, mồ hôi, máu và nước
mắt của người dân vùng quê được mệnh danh đất thép.
Năm 1948, ở hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An đã
bắt đầu xuất hiện những đoạn hầm ngắn, cấu trúc đơn giản dùng để cất
giấu tài liệu, vũ khí, làm nơi trú cho lực lượng du kích hoạt động. Về
sau, mô hình hầm được lan rộng trong nhiều xã. Đến năm 1965, năm xã phía
Bắc Củ Chi đã hoàn thành địa đạo "xương sống".
Khi cuộc chiến chống Mỹ phát triển mạnh vào những năm
1966-1968, phong trào đào địa đạo ngày càng phát triển ở vùng đất này.
Khắp nơi, trai gái, trẻ già nô nức tham gia kiến tạo đường hầm đánh
giặc. Đến năm 1968, hệ thống địa đạo khoảng 250 km được hình thành.
Địa đạo Củ Chi là di tích lịch sử với hệ thống hầm dài 250 km dưới lòng đất. Ảnh: Kiên Cường |
13 di tích được xếp hạng đặc biệt của quốc gia
Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà tù Côn Đảo, Cố đô Hoa Lư, Thành nhà Hồ... vừa trở thành di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm trong danh sách xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt lần này. Ảnh: Nguyễn Hưng. |
Ngày 10/5, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân ký quyết
định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 2) đối với 13 di tích. Các
di tích này gồm: Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Kim Liên (Nghệ
An); Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Mỹ Hòa Hưng (An Giang); Di
tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình); Văn Miếu -
Quốc Tử Giám (Hà Nội); Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương); Thành Nhà Hồ
(Thanh Hóa); Danh lam thắng cảnh Tràng An - Tam Cốc - Bích Động (Ninh
Bình); Di tích lịch sử Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế (huyện Yên Thế,
huyện Tân Yên, huyện Việt Yên và huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang ở Bắc
Giang); Nhà tù Côn Đảo (Bà Rịa Vũng Tàu); Di tích lịch sử Pác Bó (Cao
Bằng); Tân Trào (Tuyên Quang); An toàn khu (ATK) Định Hóa (Thái Nguyên);
và Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (Tây Ninh).
Trước đó, năm 2009, Hoàng Thành Thăng Long (Hà Nội);
khu di tích Phủ Chủ tịch (Hà Nội); Đền Hùng (Phú Thọ); Khu di tích chiến
thắng Điện Biên Phủ (Điện Biên); Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Vườn quốc
gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình); Quần thể di tích Cố Đô Huế (Thừa
Thiên - Huế); Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam); Đô thị cổ Hội An (Quảng Nam)
và Dinh Độc Lập (TP HCM) được Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc
biệt.
Bình Minh
Vẻ đẹp kỳ ảo ở hang động khô dài nhất châu Á
Dài 31 km, nơi rộng nhất khoảng 150 m, động Thiên Đường
mới được phát hiện ở Quảng Bình mang vẻ huyền ảo khiến hàng trăm du
khách trầm trồ.
Được phát hiện năm 2005 nhưng sau 5 năm khai thác, mở đường, phạt núi và xây dựng lối lên xuống, động Thiên Đường vừa được tập đoàn Trường Thịnh đưa vào hoạt động chiều 3/9. |
Động cách thành phố Đồng Hới (Quảng Bình) khoảng 60km về phía Tây Bắc, nằm giữa rừng Phong Nha – Kẻ Bàng, thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch. Theo các chuyên gia, Thiên Đường còn đẹp và tráng lệ hơn cả Phong Nha và Tiên Sơn. |
Với cặp song sinh cao tuổi nhất Việt Nam...
Kỷ lục Việt Nam về người cao tuổi nhất đã trao cho cặp song sinh
Vi Thị Đắc và Vi Thị Các ở xã Đồng Cam, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ,
hai chị em vừa dắt tay nhau bước sang con số đẹp - tuổi 101.
Bạn đọc sẽ gặp được nhiều nụ cười trong bài phóng sự này. Nụ cười móm mém hồn nhiên cau trầu của hai bà cụ đoạt kỷ lục. Nụ cười chất phác xuề xoà của những ông con, ông cháu, những người nuôi “phật sống” trong nhà, cũng là những người không thể trả lời câu hỏi về “phương pháp” nuôi các cụ làm nên kỷ lục quốc gia. Và nụ cười hóm hỉnh xuyên suốt, đôi khi chua cay, của chính tác giả thiên phóng sự gửi đến những “sự đời” xung quanh cái kỷ lục rất đáng kỷ lục này.
Bạn đọc sẽ gặp được nhiều nụ cười trong bài phóng sự này. Nụ cười móm mém hồn nhiên cau trầu của hai bà cụ đoạt kỷ lục. Nụ cười chất phác xuề xoà của những ông con, ông cháu, những người nuôi “phật sống” trong nhà, cũng là những người không thể trả lời câu hỏi về “phương pháp” nuôi các cụ làm nên kỷ lục quốc gia. Và nụ cười hóm hỉnh xuyên suốt, đôi khi chua cay, của chính tác giả thiên phóng sự gửi đến những “sự đời” xung quanh cái kỷ lục rất đáng kỷ lục này.
Bằng xác nhận kỷ lục được treo trang trọng. |
Việt Nam đạt 10 kỷ lục châu Á
Sáng 26.5, tại Hội ngộ kỷ lục gia toàn quốc lần thứ 22 ở TP.HCM, đại diện Tổ chức Kỷ lục châu Á chính thức công bố 10 kỷ lục Việt Nam đạt kỷ lục châu Á, gồm:
1. NGÔI CHÙA BẰNG ĐỒNG (TRÊN ĐỈNH NÚI) LỚN NHẤT: đó là chùa Đồng trên núi Yên Tử, cách mặt biển 1.068 m (thuộc TP.Uông Bí, Quảng Ninh), toàn bộ đúc bằng đồng nặng 70 tấn với 6.000 chi tiết, trong đó có 4 cây cột (mỗi cột nặng 1 tấn). Chuông và khánh đồng nặng hơn 250 kg, mỗi viên ngói nặng 4 kg.
Ngôi chùa bằng đồng lớn nhất - Ảnh: Huỳnh Thanh Sang |
3. TƯỢNG PHẬT THÍCH CA BẰNG ĐỒNG DÁT VÀNG LỚN NHẤT: cao 10 m, nặng 100 tấn, tôn trí ở chánh điện của Điện thờ Pháp chủ chùa Bái Đính, được tạo hình trong tư thế tĩnh tọa.
4. TƯỢNG CHÚA KITÔ LỚN NHẤT: đặt trên đỉnh núi Tao Phùng (TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) ở độ cao 176m so với mực nước biển. Tượng cao 32 m, sải tay dài 18,4 m, hai bàn tay dài 2,2 m, ngón giữa dài 1,1 m, bề ngang bàn tay rộng 1,1 m.
5. CẬU BÉ MÙ CHƠI ĐƯỢC NHIỀU NHẠC CỤ NHẤT: đó là Bùi Ngọc Thịnh sinh năm 2000, sống với cha mẹ ở TX.Ninh Hòa (Khánh Hòa). Bị mù bẩm sinh nhưng em học chơi trống năm 6 tuổi, học đàn guitar năm 7 tuổi, học đàn organ năm 9 tuổi và đánh đàn nhị, đàn sến năm 11 tuổi. Hiện Thịnh tiếp tục luyện thêm đàn tranh và đàn kìm.
6. HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ NHÀ TÙ TRÊN ĐẢO LỚN NHẤT: do người Pháp xây từ năm 1862 tại Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), là nơi giam giữ những chiến sĩ đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam qua hai thời chống Pháp và chống Mỹ. Côn Đảo có hệ thống 8 trại giam chính, mỗi trại rộng từ 10.000 đến 25.000 m2, cùng hàng chục trại phụ. Chưa có nhà tù nào ở châu Á có nhiều khu kỷ luật như 20 hầm đá, 14 xà lim, 31 gian biệt lập chuồng bò, 120 chuồng cọp Pháp, 384 chuồng cọp Mỹ…
7. HANG ĐỘNG KHÔ DÀI NHẤT: động Thiên Đường ở Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (H.Bố Trạch, Quảng Bình) trên độ cao khoảng 360 m so với mực nước biển, không có sông ngầm chảy qua và thuộc hệ thống hang Vòm, với chiều dài lên tới 31,4 km, chiều cao từ sàn động đến trần động là 60 m, chiều rộng dao động từ 30 - 100 m, có nơi lên đến 150 m.
8. ĐỊA ĐẠO DÀI NHẤT: ra đời năm 1948 (thời chống Pháp) tại Củ Chi (TP.HCM), có tổng chiều dài trên 250 km đường hầm nằm sâu trong lòng đất với nhiều tầng hầm, ngõ ngách, đan chéo chằng chịt.
9 TƯỢNG PHẬT QUAN THẾ ÂM BẰNG HOA LỚN NHẤT: kết từ 500.000 bông hoa bất tử, cao 15,5 m, nặng 3 tấn, với đài sen đường kính 5 m, do các nghệ nhân hoa cùng 500 thiện nam tín nữ chùa Linh Phước (TP.Đà Lạt, Lâm Đồng) thực hiện vào đầu năm 2010.
10. SÁCH ĐỘC BẢN "THI VÂN YÊN TỬ" LỚN NHẤT: dày 300 trang, mỗi trang đều phủ lớp laminate bảo vệ, kích thước 125x80x16 cm, nặng 120 kg, với bìa sách bằng gỗ gụ, thực hiện từ tháng 4 đến 12.2011 tại Nha Trang. Nội dung gồm 143 bài thơ của GS-TS Hoàng Quang Thuận, 143 bài thơ (viết lại) bằng thư pháp chữ Việt, 143 ảnh minh họa.
Giao Hưởng
Những cây cầu kỷ lục của Việt Nam
Bên cạnh sức quyến rũ tuyệt đẹp từ tòa nhà Financial Bitexco, hay sức
hút kỳ lạ từ kiến trúc bảo tàng Hà Nội được hoàn thành vào năm 2010,
chúng ta sẽ ngỡ ngàng với những thành tựu xây dựng khác mà đất nước đã
có được. Đặc biệt là những chiếc cầu kỷ lục tại Việt Nam thời gian qua.
Có những giá trị kiến trúc riêng, độc đáo, hiện đại và điểm nhấn quan
trọng là một số công trình đã được thi công hoàn toàn bằng công nghệ và
tài năng, trí tuệ người Việt. Đó là niềm tự hào lớn hơn cả giá trị vật
chất mà công trình ấy đóng góp.
Một vòng quanh dải đất hình chữ S, chúng ta cùng điểm danh những nét đẹp "hoành tráng" từ những chiếc cầu kỷ lục ấy.
Cầu Sông Hàn
Điểm nổi bật trên bầu trời kiến trúc Việt Nam hiện đại. Được khánh
thành và đưa vào hoạt động từ năm 2000, cây cầu này vẫn ngày ngày chuyển
động như là biểu tượng của thành phố trẻ Đà Nẵng năng động.
Kỷ lục Việt Nam: Chiếc diều sáo có nhiều sáo nhất
Bộ sáo ầm gồm 13 sáo gắn vào phần tiếp giữa khung cái và khung quân trên của diều.
Nguồn : vietgiaitri.com
Đại Trà là một thôn thuộc xã Đông Phương, huyện Kiến Thụy, Hải
Phòng. Nơi đây, từ thế kỷ 13 ông Trần Quốc Thi – Thành hoàng làng Đại
Trà – là người khai sinh, lập ấp khởi xướng việc làm sáo diều.
Tiếp nối truyền thống làng nghề, từ ngày 8/7 đến 15/10/2011, ông
Nguyễn Văn Lộc và Hội làng nghề thôn Đại Xá, xã Đông Phương, huyện Kiến
Thụy thực hiện làm một chiếc diều sáo.
Giữa thân diều là hai khung cái bằng gỗ buộc úp lại với nhau dài 440cm,
hai bên phất diều có chiều dài sải cánh 680cm ; bẹn diều dài 170cm,
rộng (cả hai bên) 160cm…
Bộ sáo ầm gồm 13 sáo gắn vào phần tiếp giữa khung cái và khung quân trên của diều. 13 sáo, từ sáo lớn nhất dài 150cm, đường kính 17cm đến sáo nhỏ nhất dài 7cm, đường kính 1,3cm. làm bằng các chất liệu mai rừng, nứa ngộ, nứa tép, tre bờ già, gỗ xoan, gỗ mít… Muốn thả chiếc diều này dùng dây cước đường kính 3,5cm và cần đến 20 người. Diều có thể bay ở độ cao trên 100m. Diều đã được người dân thả bay cao vào ngày 2.10 ÂL (24-10-2011).
Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận đây là kỷ lục Việt Nam 20g ngày 5 tháng 11 năm 2011.
Bộ sáo ầm gồm 13 sáo gắn vào phần tiếp giữa khung cái và khung quân trên của diều. 13 sáo, từ sáo lớn nhất dài 150cm, đường kính 17cm đến sáo nhỏ nhất dài 7cm, đường kính 1,3cm. làm bằng các chất liệu mai rừng, nứa ngộ, nứa tép, tre bờ già, gỗ xoan, gỗ mít… Muốn thả chiếc diều này dùng dây cước đường kính 3,5cm và cần đến 20 người. Diều có thể bay ở độ cao trên 100m. Diều đã được người dân thả bay cao vào ngày 2.10 ÂL (24-10-2011).
Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận đây là kỷ lục Việt Nam 20g ngày 5 tháng 11 năm 2011.
Theo BDVN
Nguyên tắc Cúng, Khấn, Vái, và Lạy
I. Nghi-Thức Cúng Gia-Tiên
Khi cúng thì chủ gia đình
phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,”
rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện),
thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia
đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông
để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn.
Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá
cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên
những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng
tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị
của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ
vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy.
Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
Bộ tem chính thức đầu tiên mang quốc hiệu "Việt Nam"
Bộ
tem chính thức đầu tiên mang quốc hiệu "Việt Nam" do Bưu điện Việt Nam
phát hành vào ngày 02-9-1946, nhân kỷ niệm lần thứ nhất Cách mạng tháng
Tám (19-8-1945) và ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(02-9-1945), theo sắc lệnh số 172/SL ngày 27-8-1946 của Chủ tịch Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tranh thờ Ngũ Hổ
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, hổ là con vật có sức mạnh thiêng liêng diệt trừ được ma quỷ. Đã từ lâu, hổ được tôn thờ và danh xưng của hổ cũng được thần thánh hóa là Ngài, là “Ông Ba mươi” đầy uy linh, quyền kính. Hổ được dựng thành biểu tượng qua nhiều chất liệu của tạo hình: gỗ, đá, vôi giấy, đất nung, tranh vẽ, tranh cắt giấy... có ở hầu khắp các công trình: đền, miếu, đình, lăng mộ… Nhưng mẫu tranh được biết đến nhất qua nhiều thế hệ đó là tranh Ngũ Hổ của phố Hàng Trống (Hà Nội) ngày xưa. Không chỉ là một tác phẩm hội họa, tranh Ngũ Hổ còn ẩn chứa nhiều thông điệp của nền văn hóa cổ phương Đông.
Không bày trên bàn thờ gia tiên như những bức tranh ngũ quả, tranh Ngũ Hổ thường treo ở bàn thờ dành riêng cho “Ông Ba mươi”, dưới ban thờ thần thánh hoặc thờ Phật. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, tục thờ hổ bắt nguồn từ một cuộc sống nguyên thủy, khi con người còn sống trong điều kiện săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp, hổ chính là sức mạnh thiên nhiên gần gũi và là tai họa đối với con người. Do đó, con người thờ hổ.
Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012
Kiến trúc - mỹ thuật trong các ngôi chùa Khmer
|
Xuôi về Đồng bằng sông Cửu Long trù phú với đồng quê, sông nước, miệt
vườn, khách bị cuốn hút bởi những ngôi chùa Khmer cổ kính thấp thoáng
trong vườn cây cổ thụ bao quanh.
Hệ thống chùa Khmer ở ĐBSCL khá dày đặc, nhất là ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng… Có những ngôi chùa được xây dựng từ trước thế kỷ XVI nhưng cũng có ngôi chùa mới xây dựng hoặc đại trùng tu trong thế kỷ XIX, XX. Tuy có sự khác nhau khá xa về niên đại nhưng vẫn có những đặc trưng chung: đó là sự đồ sộ, uy nghi với nét đặc thù rất tiêu biểu cho kiến trúc Khmer truyền thống. Chùa Seray Kadal (1694) còn nhiều kiến trúc gỗ |
Gìn giữ vẻ đẹp kiến trúc Pháp ở Hà Nội
|
Vẻ đẹp của kiến trúc Hà Nội không chỉ dừng lại ở những công trình
truyền thống thời cổ - trung đại mà còn ở các khu phố xây dựng trong
khoảng thế kỷ XIX-XX tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc Việt Nam thời kỳ
cận đại.
Bắc Bộ Phủ Nhà thờ lớn |
LỊCH SỬ NAM ĐỊNH
Nam Định thời tiền sử
Trên
đất Nam Định, dấu tích con người ở thời kỳ này còn lưu lại ở các dãy
núi thuộc huyện Vụ Bản và huyện Ý Yên nằm về phía tây bắc của tỉnh. Tại
đây đã tìm thấy những chiếc rìu đá có vai mài lưỡi, các hòn nghè, chày
đá và bàn nghiền. Đó là những dấu tích của những cư dân thuộc thời kỳ
đồ đá mới hoặc sơ kỳ đồ đồng đã từ vùng rừng núi tiến xuống khai phá
vùng đồng bằng ven biển để sinh sống và dần dần tiến tới lập các làng
xóm. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ đồ đá, ở tỉnh Nam Định cũng như nhiều
địa điểm khác trên đất nước, đã nở rộ những nền văn hoá nguyên thuỷ.
Ngoài kinh tế hái lượm những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên, người nguyên thuỷ trên đất Nam Định đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Gốm Phù Lãng – vẻ đẹp toát lên từ hồn đất
Là
một trong ba trung tâm gốm cổ nổi tiếng còn duy trì và phát triển ở
Việt Nam, gốm Phù Lãng được biết đến với những sản phẩm chứa đựng vẻ đẹp
nguyên sơ, tinh túy và hồn dân tộc từ đất và lửa. Nét độc đáo của các
sản phẩm gốm Phù Lãng không chỉ là màu men da lươn mộc mạc, khỏe khoắn,
đậm nét điêu khắc của tạo hình đã được các nghệ nhân gìn giữ từ bao đời
mà còn là những kỹ thuật đắp nổi hiện đại, mẫu mã đa dạng, đáp ứng nhu
cầu ngày càng “khó tính” của khách hàng.
Làng
gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, nằm bên
cạnh con sông Cầu thơ mộng. Về thăm làng gốm Phù Lãng vào một ngày đầu
xuân, chúng tôi được sống trong không khí lao động khẩn trương, hăng say
của các nghệ nhân.
Nguyên
liệu làm gốm truyền thống Phù Lãng là đất đỏ hồng lấy từ Bắc Giang,
cách đó khoảng 20km. Một miếng đất trước khi chuốt phải nề, xéo hàng
chục lần mới thành khoanh cho lên bàn xoay nắn thành sản phẩm.
Một nghệ nhân của cơ sở sản xuất gốm nghệ thuật Bảy Xá
Dưới
bàn tay của người thợ, đất sét được luyện thật nhuyễn, đảm bảo độ dẻo,
mịn nhất định và được tạo hình trên bàn xoay bằng tay hoặc khuôn.
Bức "Làng quê Việt Nam"
Kỹ thuật đắp nổi hiện đại được các nghệ nhân Phù Lãng đưa vào ứng dụng nhằm tạo ra sự đa dạng về mẫu mã.
Sau khi sản phẩm đã thành hình và để khô, chúng được điểm tô trên thân mình loại men đặc biệt và những sắc màu đậm hồn dân tộc.
Ở
Phù Lãng người ta vẫn sử dụng phương pháp truyền thống - dùng củi để
nung ở nhiệt độ 1000 độ C, nhờ sự biến nhiệt khác nhau tạo ra những vết
táp trên bề mặt gốm mà không phương pháp nào có thể thay thế nổi
Đặc
trưng của Phù Lãng là gốm được tận dụng triệt để trong cách bài trí nội
thất, ngoại thất. Những bức tường cũng trở nên có hồn hơn…
Có
một dự án du lịch làng nghề sắp đươc diễn ra với sự tham gia của một số
kiến trúc sư người Pháp. Làng gốm truyền thống của Phù Lãng đang chuyển
mình theo một hướng mới….
HÀ ANH
|
NGÔI CHÙA CỔ VÙNG KINH BẮC
CHÙA BÚT THÁP
LỪNG DANH KINH BẮC
Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đượm màu nước non.
(Ca dao)
Ở miền đồng bằng Bắc bộ, dân gian có câu
nói truyền tụng : “cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”, Nam là Sơn Nam (Nam
Hà, Thái Bình, Hải Hưng, nơi có nhiều cầu đá), Bắc phía Kinh Bắc (Bắc
Ninh, Bắc Giang, nổi tiếng với những chùa cổ, tiếng hát quan họ), Đoài ở
hướng Tây (Hà Tây, Sơn Tây, rất hãnh diện với những đình làng lớn đẹp
như đình Tây Đằng, đình Chu Quyến).
Ninh Phúc Tự là một trong các chùa cổ ấy
nằm trên bờ sông Đuống hiền hòa cách Hà Nội khoảng 25km, còn được gọi
chùa Nhạn Tháp vì thỉnh thoảng có những con chim nhạn bay về đậu trên
đỉnh các tháp. Chùa tọa lạc ở xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, được vua Tự Đức đặt tên chùa Bút Tháp vì tháp Báo Nghiêm
trông tựa cây bút lông. Chùa nằm trong vùng Siêu Loại (tên quê hương
Nguyên phi Ỷ Lan) có thành cổ Luy Lâu, làng tranh dân dã Đông Hồ, đền
thờ Kinh Dương Vương, đền thờ Lạc Long Quân – Âu Cơ, nơi phát tích đạo
Phật với những chùa Phật Tích, chùa Keo, chùa Dâu tức Cổ Châu Tự.
Theo truyền thuyết, chùa Bút Tháp được
xây dựng từ thế kỷ 13, dưới đời vua Trần Thánh Tông, nhưng như nhiều
chùa chiền xưa ở nuớc ta, vật liệu xây dựng là tre, gỗ nên khó chịu đựng
được sức tàn phá của thời gian, dễ bị hủy hoại.
Vị tu sĩ trù trì đầu tiên ở chùa là Thiền
sư Huyền Quang (1254-1334), quê gốc làng Văn Ty, phủ Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh. Dưới đời vua Trần Thái Tông, tưong truyền có bà mẹ họ Lê nhân
nằm mộng thấy một con khỉ đội mũ vuông, mặc áo vàng, phóng vào bụng bà
một mặt trời đỏ, từ đó thụ thai mà sinh ra Thiền sư. Thi đỗ Trạng nguyên
năm 20 tuổi, bổ làm quan Viện Hàn lâm, có tài ứng đối, thông thạo kinh
nghĩa, không có ý sắc dục. Ngài xuất gia năm 51 tuổi. Ngài là vị tổ thứ
ba dòng Lâm tế, có cho xây một ngôi tháp chín tầng, trang trí hoa sen,
loại cối xay cầu nguyện, ngày nay là Tòa Cửu Phẩm.
Qua thế kỷ 17, Hòa thượng Chuyết Công, quê gốc Phúc Kiến, có công xây dựng làm chùa nổi tiếng, sau
khi viên tịch được vua Lê phong Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức
Thiền Sư. Kế nghiệp là vị đồ đệ xuất sắc Thiền sư Minh Hành (1644) quê
gốc Giang Tây. Cuộc điều khiển xây dựng của hai vị giải thích ảnh huởng
Trung Quốc trong kiến trúc chùa. Vào lúc nầy, Hoàng thái hậu Trịnh Thị
Ngọc Trúc tức Diệu Viên và con gái Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên tức Diệu
Tuệ được chúa Trịnh cho phép bỏ công sức thiết lập quy mô kiến trúc căn
bản cho ngôi chùa. Qua đầu thế kỷ 18, chùa được các quan viên họ Lê như
Luân Quận công, Dĩnh Quận công, Thế Thái Hầu, Ninh Lộc Hầu,… cùng với
Nhu Thuận quận chúa họ Trịnh bỏ tiền mua sắm gỗ gạch tu bổ, lại thêm
được dân làng mời thợ sửa sang cho khang trang hơn.
Sang thế kỷ 20, Tổng đốc Ninh Thái là
Hoàng Trọng Phu thấy chùa hoang vắng liền thu tập tiền của trùng tu sửa
chữa. Nói chung, từ thế kỷ 17 đến nay, chùa đã được trùng tu non mười
lần, lần cuối cùng những năm 1990-1993, chùa được tạo dựng hoàn toàn,
hiến cho ta ngày nay một kiệt tác nghệ thuật kiến trúc khá nguyên vẹn,
chứa đựng một số chứng tích, di vật điêu khắc độc đáo, hiếm có niên đại
nhiều thế kỷ.
Kiệt tác nghệ thuật nầy được thực hiện
một phần lớn, như đã thấy, là nhờ công lao của hai mẹ con Hoàng thái hậu
Ngọc Trúc và Công chúa Ngọc Duyên. Năm
1619, chúa Trịnh Tùng bắt vua Lê Kính Tông tự tử rồi lập Hoàng tử Duy
Kỳ lên ngôi, lấy hìệu Lê Thần Tông. Người thông minh, học rộng, nhà vua
còn bị Trịnh Tùng ép lấy con gái mình là Ngọc Trúc đã có chồng là Lê Trụ
bị xử trảm và bốn con. Làm vua đến 1643, Lê Thần Tông nhường ngôi lại
cho con là Thái tử Duy Hữu tức Lê Chân Tông rồi đưa Ngọc Trúc về Thanh
Hóa xây dựng chùa Mật, nay đã hoàn toàn bị phá. Bên phần Hoàng thái hậu,
số phận long đong, cũng muốn nương nhờ cửa Phật, bèn cùng các thân nữ
lại chùa Phật tích nghe Thiền sư Chuyết Chuyết giảng kinh. Từ đấy, bà
xin vua cha cho phép trùng tu chùa Bút Tháp đang đổ nát để sau nầy chính
thức xuất gia. Công chúa Ngọc Duyên tình nguyện cúng các ruộng lúa làm
chi phí. Khi chùa hoàn thành, Thiền sư dời sang trù trì, Hoàng thái hậu
cùng các con gái, các hoàng thân ở cung vua phủ chúa cũng kéo nhau về
đó. Năm 1644, khi Thiền sư Chuyết Chuyết viên tịch, Thiến sư Minh Hạnh
đến nay trù trì chùa Phật Tích và đã nhiều lần được gởi qua Trung Quốc
thỉnh kinh, sang Bút Tháp kế nhiệm.
Trong số các kiểu chữ tam, chữ đinh, chữ
công định nghĩa theo hình thức, kiểu nội công ngoại quốc đã được chọn :
bên ngoài hình chữ khẩu hay chữ quốc bao quanh bảy tòa nối liền Tiền đường đàng trước với Hậu đường (hay Nhà Hậu, thờ Thánh Tam tòa, Tứ phủ, các sư tổ) phía sau ; giữa hai tòa ầy nối tiếp nhau qua những khoảng trống lộ thiên, từ ngoài vào là Tiền đường, Thiêu Hương, Thượng đìện, Tích Thiện Am (hay Tòa Cửu Phẩm), Nhà Trung, Phủ Thờ. Nếu Tiền đường, Thiêu Hương và Thượng đìện dính với nhau, sắp thành chữ công, hai Nhà Trung và Phủ Thờ tách rời riêng biệt, còn Thượng đìện và Tích Thiện Am
được nối nhau qua một cây cầu đá. Hai bên những tòa nhà nầy là hai hành
lang 26 gian dài hơn 100m chạy suốt dọc chùa. Ngoài tổng thể nầy, toàn
bộ hướng về phía nam, hướng của trí tuệ, bát nhã, trước chùa có Tam Quan trống rỗng, bỏ ngỏ tỏ rõ tấm lòng từ bi đức Phật luôn mở rộng đón nhận tất cả kiếp người và Gác chuông
hai tầng tám mái khá cao, tầng trên lát gỗ lim đen bóng, ở giữa quả
chuông đồ sộ đời Gia Long thứ 14 (1815) ; hai bên có hai nhà bia (1647 :
Xây dựng chùa Ninh Phúc ; 1674 : Cúng ruộng cho Tam bảo chùa Ninh Phúc)
; sau có các Tháp Tôn Đức, Ni Chân, Tâm Hoa ; hai bên hông có Tháp Bảo Nghiêm, Nhà tổ và những Tháp mộ các thiền sư.
Trong số các tượng hình trong chùa Bút
Tháp, có tiếng nhất là pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn tức Quan
Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay, kiệt tác của nền điêu khắc Việt Nam. Cao 370cm,
đường kính vành tay 224cm, tượng được đặt trong Thượng điện
cùng với những tượng Tam Thế, các vị Bồ Tát như Thích Ca Tuyết Sơn, Văn
Thù, Phổ Hiền,… và hai dãy 18 vị La Hán sát tường hai bên. Dưới bệ tượng
có ghi tên người khắc là một ông họ Trương, sau mười năm nghiền ngẫm,
làm xong mùa thu năm Bính Thân (1656) nghĩa là tác phẩm thuộc về loại
sớm nhất trong nghệ thuật điêu khắc Phật giáo ở nước ta.
Hóa thân Quan Âm của đức Avalokitesvara
hàm nghĩa là nghe tiếng kêu than của chúng sinh để đến cứu độ. Tay tượng
gồm có 42 tay lớn không cầm pháp khí (kim cương, chử, vòng, chuổi hạt,
hạt châu,…) như thường lệ, 958 tay nhỏ tạo thành 7 vòng tay. Các cánh
tay nhịp điệu khác nhau, trong lòng mỗi bàn tay mang một con mắt, kết
thành một vầng hào quang quanh đầu, trên có hình Diệu âm điểu Kalavinka
tượng trưng cho Phật pháp vĩnh cữu.
Tích Phật kể Ngài lo nghĩ nhiều cho đời
nên đầu vỡ thành nhiều mảnh, Phật A Di Đà cảm thông đã dùng phép thuật
vô biên biến hóa mỗi mảnh thành một bộ mặt để tăng thêm pháp lực cứu độ
chúng sinh. Vì vậy, xếp thành 4 tầng, Ngài có 11 bộ mặt tượng trưng cho
những đức tính cần thiết trước để đức Bồ Tát, sau để giúp chúng sinh đạt
đến giác ngộ. Đức Quan Âm ngồi thiền định, bàn chân mặt ngửa trên đùi
trái theo thế bán kiết già, trên một tòa sen Rồng đội. Con rồng nầy là
hóa thân của Long Vương Upananda, thêm vào những sinh vật ngao, ốc, cua,
hến,…lặn lội giữa những lớp sóng động của Thủy cung, hàm ý Phật pháp
thuấn nhuần thế gian.
Trong Thượng điện, đức Quan Âm
còn có mặt qua ba pho tượng Quan Âm Tọa Sơn, hai pho bằng gỗ thế kỷ
17-18, một pho bằng đất thế kỷ 19-20, cao 140cm, khuôn mặt thanh tú.
Trong các pho nầy, Ngài ngồi chân mặt gập, bàn chân dẫm xuống đất, đầu
gối cao ngang ngực, chân trái ngả nằm trên mặt bệ, theo kiểu Thanh nhàn
đế vương Maharaja lilasana. Tượng Tuyết Sơn cao toàn bộ 222cm, còn gọi
Tây Thiên Đông đô lịch đại tổ, trình bày chân dung Thái tử Thích Đạt Đa
khi đi tu ép xác ở núi tuyết, cơ thể, mặt mày rõ ràng đau khổ.
Trong Phật điện Việt Nam, thường có hai
thị giả được thờ hai bên đức Phật Thích Ca, hai hình tượng được xem là
sớm nhất trong ngành điêu khắc Phật giáo Việt Nam là hai pho Văn Thù và
Phổ Hiền. Văn Thù Sư Lợi tức Manjushri, cao 125cm, dịu hiền, sắp bên
mặt, là vị Bồ Tát của trí năng, người chiến thắng bóng tối và ngu dốt.
Tay cầm kiếm Kim Cương đoạn diệt mê hoặc, Ngài ngồi trên lưng sư tử mà
sức mạnh là biểu tượng cuộc tồn sinh và năng lực phát sinh nên Ngài cũng
là vị Bồ Tát của sự giác ngộ. Phổ Hiền Bồ Tát tức Samanthadra, cao
180cm, sắp bên trái, được xem là vị Bồ Tát hộ vệ những ai tuyên giảng
đạo pháp. Ngồi trên voi trắng sáu ngà, voi trắng tượng trưng cho trí tuệ
vượt chướng ngại, sáu ngà cho sự chiến thắng sáu giác quan, Ngài được
kê trong Phật Đài Nhật Bản, cũng là một trong bốn Đại Bồ Tát Trung Quốc.
Trú xứ của Ngài là núi Nga Mi, nơi Ngài lưu trú sau khi cỡi voi trắng
từ Ấn Độ sang Trung Quốc.
Chùa không quên ơn các vị đã bỏ công của ra trùng tu chùa nên trong Phủ Thờ
có tượng của Hoàng Thái Hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (1595-1660) tức Chúa bà
Kim Cương, tượng hai Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (1615-1664), Quận chúa
Trịnh Thị Ngọc Cơ và tượng Thái Tử Lê Đinh Tứ. Khi xây chùa Mật, vua Lê
Thần Tông có cho tạc chân dung mình và sáu bà hoàng. Hiện nay tượng vua
và năm hoàng phi được đặt tại Thái miếu nhà Lê ở Thanh Hóa. Ở chùa Bút
Tháp, các chân dung chịu ảnh hưởng của các tượng chùa Mật, có lẽ vì được
cùng các nghệ nhân tạc khắc, tuy không sâu sắc bằng. Vẻ mặt cao quý,
tượng các bà hoàng được đặt trong các khám thờ trang trọng.
Ở giữa, tượng bà Hoàng Thái Hậu Ngọc
Trúc, cao 95cm, không còn giữ y phục vương triều mà được khoác áo tu
hành giản dị. Khuôn mặt cương nghị, đôi mắt mở to tỏ ra một người đã
từng sống và đã từng trải qua những cơn đau khổ. Hai bên tượng hai Công
chúa Ngọc Duyên và Quận chúa Ngọc Cơ, cao 120cm, đội mũ phượng, xiêm y
có chạm hoa văn, cách tạo hình trang trọng và rực rỡ như chân dung ở
chùa Mật. Còn pho tượng nam giới là Thái Tử Lê Đinh Tứ cao 170cm. Trong Nhà tổ,
có hai tượng Thiền sư Chuyết Chuyết (1590-1644) tức Chuyết Công, cao
95cm và Thiền sư Minh Hành (1595-1659) pháp hiệu Tại Tại, có mặt vuông
vức, mũi gồ. Rải rác ở Thượng điện và Hậu đường còn có
một số loạt tượng chân dung hoàng thân, sư tổ, khó xác định tên tuổi
từng người. Vua Trần Nhân Tông, thuở ban đầu chùa Bút Tháp, đã có gởi
lòng thủ phận trong một bài thơ thiền bằng chữ Hán. Dịch : (trích sách
của Phan Cẩm Thượng)
Không phàm hà tất kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người già yếu
Vẫn trước am mây với sập thiền.
Phải trái trôi theo hoa rụng sớm
Danh lợi lạnh lòng trận mưa đêm
Hoa tàn, mưa lạnh, núi non lặng
Cuối xuân sót lại một tiếng chim.
Tòa Tích Thiện Am, như tên gọi có nghĩa chứa điều lành, xây từ năm Tân Dậu 1681 đến năm Tân Mùi 1691 như thấy ghi trong tấm bia, còn được gọi Cửu phẩm liên hoa
vì giữa tòa có đặt một cối kinh bát giác cao 7,8m, bằng gỗ 9 tầng, thể
hiện 9 kiếp tu của đức Thích Ca. Tháp mang ý nghĩa cửu phẩm vãng sinh về
thế giới cực lạc của đức Phật A Di Đà. Theo nghi thức Phật pháp Mật
tông nguồn gốc Tây Tạng, tháp quay có mục đích nhân lời tụng lên nhiều
lần (3.542.400 lần khi quay một vòng tháp !), từ đó con người càng chóng
chứng quả Phật pháp hơn. Bên cạnh nhiều pho tượng Phật và các vị Bồ
Tát, tám mặt của tháp có chạm những bức phù điêu liên quan đến tích nhà
Phật, khuyến thiện trừ ác, hành trang các vị tổ, đại sư.
Tầng một : Hoa tàng thế giới, Sa bà thế
giới. Tầng hai : Anan kết tập, Di Đà thuyết pháp. Tầng ba : Tín thụ tác
lễ, Cực lạc thế giới. Tầng bốn : Thiền sư, Lục tổ. Tầng năm – tầng tám :
8 vị Phật, tổng cộng 32 vị. Tầng chín : 4 tượng Di Đà và hai hàng chữ :
Cửu phẩm liên hoa, A Di Dà Phật. Đục chạm tinh xảo, sắp xếp hoàn hảo
người vật, cây Cửu phẩm chùa Bút Tháp là một trong ba cây ở Việt Nam,
đều nằm trong địa bàn phát triển của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Tòa Tích Thiện Am nối liền với Thượng điện qua một cầu vồng đá cong bắc ngang qua hai hồ sen mang tên Bích Da. Được
hai con sư tử bảo vệ ở phía đầu, cầu dài 4m, gồm 3 nhịp uống cong, mặt
cầu lát đá xanh, trên lan can có 12 bức chạm khắc đá, nối tiếp 26 bức
trên lan can tòa Thượng điện. Cao 14cm, rộng 130cm, những bức
nầy được phân bố cân đối, hợp lý, chạm khắc công phu, tinh xảo, trang
trí nhiều đề tài giới hạn trong lĩnh vực chim (cò, phượng, hạc, vẹt),
thú (ngựa, thỏ, dê, hươu, cá, khỉ, rồng, kỳ lân, tê giác, sư tử), cây
(tùng, mai), hoa (cúc, sen, lan, hướng dương, phù dung, loa kèn) và
thiên nhiên (mặt trăng, mặt trời) trong những hoạt cảnh truyền thống
(phượng múa kỳ lân, đôi cá vờn trăng, sư tử vờn cầu, đôi lân quyết đấu,
năm rồng gặp biển, năm ngựa cùng phi,…). Trong một nơi nghiêm chỉnh,
những bức chạm khắc đá nầy là những hình ảnh vui tươi, sống động quen
thuộc trong dân gian. Những cây hoa được chọn trong số những loài tượng
trưng cho tính cách tốt đẹp của con người : mai (sự trong trắng), lan
(sự cao quý), tùng (khí phách người quân tử),…Những con vật huyền thoại
được trình bày trong một trạng thái hư thực nhưng phản ảnh đời sống :
rồng chầu mặt trời (thăng hoa tột đĩnh), phượng múa bên hoa phù dung
(tài tử giai nhân trong thiên hạ),… Những bức chạm khắc đá nầy lẫn lộn
khô khan, giáo điều với ngẫu nhiên, hứng thú, khi rõ ràng, khi khó hiểu,
nhưng thực hiện khéo léo, tinh vi, vừa làm vừa lòng những bậc tôn giả,
vừa gây vui thích đám dân quê mộc mạc.
Sau cùng, bàn đến chùa Bút Tháp không thể quên tháp Báo Nghiêm.
Đây là nơi thờ Thiền sư Chuyết Chuyết, người có công lớn xây dựng chùa.
Tháp đá cao 13m, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh ; ngoài
tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần giống nhau, rộng 2m. Năm góc của 5
tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,30m.
Hai vòng tường cột và lan can bao quanh phần bệ tượng. Tháp thể hiện
tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc. Tháp có 23 bức chạm đá lấy các cây
hoa và chim thú làm đề tài chủ yếu như những bức ở Thượng điện và Cầu đá
: 8 bức ở chân lan can, 8 bức ở tầng một chân tháp, 7 bức ở tầng hai
tháp. Ta gặp lại những chim (cò, hạc, phượng), thú (hổ, rồng, hươu,
ngựa, dê, cua, cá, kỳ lân, sư tử), hoa (sen, hướng dương, phù dung). Ở
đây, ngoài vài hoạt cảnh đã thấy ở trên (hạc múa kỳ lân, sư tử vờn
cầu,…) có vài màn mới (dê núi dưới trăng), đặc biệt có mặt con người
(người quỳ nâng tháp, vị quan và con hạc). Nói chung tất cả các bức chạm
khẳc đá đều thống nhất với nhau về mặt chất liệu, phong cách, từ đấy
niên đại. Hình ảnh sống động, chan hòa tính chất nghệ thuật thiên nhiên,
giúp thêm ý nghĩa đạo Phật.
Được bộ Văn hoá xếp hạng Di tích Quốc gia
từ tháng tư 1962, Bút Tháp là một ngôi chùa cổ có quy mô kiến trúc lớn
của đồng bằng Bắc bộ còn đuợc bảo tồn khá nguyên vẹn đến ngày nay. Chùa
có kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa với môi trường thiên nhiên. Những
pho tượng chân dung hoàn chỉnh nhất được xem là khuôn mẫu tạo hình cho
những giai đoạn sau. Có vài yếu tố mang đậm dấu ấn Trung Quốc trong kiến
trúc đã được kết hợp một cách hài hòa với các yếu tố văn hóa truyền
thống của Việt Nam. Cho đến ngày nay, chùa Bút Tháp vẫn giữ trong mình
những giá trị đặc sắc được tích tụ trong mỗi quá trình tồn tại của mình.
Hằng năm, mỗi dịp xuân về, hội chùa Bút Tháp lại được diễn ra trong
niềm vui náo nức và lòng sùng kính của khách hành hương. Đến với lễ hội,
tăng ni phật tử cùng du khách thập phương không chỉ được chiêm ngưỡng
những pho tượng cổ nổi tiếng mà còn được hòa mình vào không gian văn hóa
đặc sắc của lễ hội vùng quê bên bờ nam sông Đuống với trò chơi đánh đu,
đấu vật, chọi gả, thả chim, ca hát quan họ, diễn chèo… Không chỉ vào
dịp lễ hội, chốn danh lam cổ tự Bút Tháp còn là điểm đến thường xuyên
của đông đảo du khách gần xa. Đồng thời đang trở nên một trung tâm du
lịch, chùa còn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về
lịch sử văn hóa của vùng quê văn hiến Kinh Bắc – Bắc Ninh.
Mừng Phật Đản 2556 (2012)
Huỳnh Mỹ Nhàn (theo bài và ảnh Võ Quang Yến)
Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012
Ảnh cố chủ tịch Kim Nhật Thành qua năm tháng
Chủ tịch Kim Nhật Thành lãnh đạo CHDCND Triều Tiên liên
tục từ năm 1948 đến khi mất tháng 7/1994. Dưới đây là hình ảnh về nhà
lãnh đạo có ảnh hưởng lâu dài đối với lịch sử hiện đại của bán đảo Triều
Tiên này.
Ông Kim Nhật Thành sinh ngày 15/4/1912 và mất ngày 8/7/1994. Đây là bức ảnh thời trẻ khi ông thành lập Liên minh Đả đảo chủ nghĩa đế quốc năm 1926. |
Kim Nhật Thành (giữa) cùng các tư lệnh của lực lượng Quân đội cách mạng nhân dân Triều Tiên (KPRA) trong những năm tháng kháng Nhật. |
Kim Nhật Thành đọc diễn văn trong cuộc tuần hành quy mô lớn ở Bình Nhưỡng tháng 10/1945, chào mừng ông trở về sau cuộc kháng chiến chống Nhật thắng lợi. Khoảng hơn 100.000 người đã tham dự sự kiện này. |
Chủ tịch Kim Nhật Thành trên khán đài theo dõi lễ duyệt binh của quân đội cách mạng nhân dân Triều Tiên (KPRA), tháng 2/1948. |
Ông Kim Nhật Thành phát biểu trước nhân dân toàn bán đảo Triều Tiên trên sóng phát thanh, ngày 26/6/1950. |
Chủ tịch Kim Nhật Thành nói chuyện với các sinh viên tại trường đại học mang tên ông ở Bình Nhưỡng, tháng 6/1957. |
Nhà lãnh đạo Kim Nhật Thành, tư lệnh tối cao của quân đội CHDCND Triều Tiên tại cứ điểm trên núi Taedok, tháng 2/1963. |
Chủ tịch Kim Nhật Thành cùng con trai Kim Jong Il (hàng đầu bên trái), nhà lãnh đạo kế nhiệm ở CHDCND Triều Tiên, trong chuyến thị sát một đơn vị quân sự, tháng 5/1965. |
Niềm vui của nhà lãnh đạo Kim Nhật Thành khi đi thăm cánh đồng lúa được mùa ở Onchon, tháng 8/1968. |
Hai nhà lãnh đạo của CHDCND Triều Tiên là Chủ tịch Kim Nhật Thành và Kim Jong Il (ngoài cùng bên trái) thăm Bệnh viện phụ sản Bình Nhưỡng, tháng 3/1980. |
Chủ tịch Kim Nhật Thành và con trai Kim Jong Il đứng trước một cỗ máy phục vụ nông nghiệp mới xuất xưởng, tháng 8/1982. |
Chủ tịch Kim Nhật Thành và nhà lãnh đạo kế nhiệm Kim Jong Il trong một lần theo dõi các binh sĩ thao diễn, tháng 4/1987. |
Đình Chính
Tài liệu tham khảo: Sách ảnh "Songun, Banner of Victory", xuất bản năm 2003 và "Glorious 50 years" xuất bản năm 1995.
Cung tưởng niệm Kumsusan
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)