Đã
có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về KInh
Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ
kinh nầy. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên
cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng
tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanh niên _ xin
giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường
tham khảo.
Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến
phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo
Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá
Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta
vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam.
Người
Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của
Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn
hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ,
sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và
những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học
của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng
hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ
chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không
kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối
nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ
cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận
hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là
xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay
mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử
chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến
từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng.
Trong vòng 60 năm
trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh
Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát
khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân
vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn.
Ngày
nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm
của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương
Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng
Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch.
1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một nghìn năm trước khi có mặt tại Trung Quốc:
Tại
di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ
đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí
bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch,
theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải.
Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta
đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình
nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong
sao được sống một đời an bình không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là
mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn
(hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định:
”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn
hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng
hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ
mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP
(Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di
chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng
Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng
Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 +
80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93).
Nếu
tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng
Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên...
tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm
của văn hoá này (1, tr 578-579).
Về phía Trung Quốc, tuy theo
truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo
ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này.
Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong
Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản
Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch.
Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời
Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các
trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6
dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt
Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh
Dịch đã có ở nước ta trước Trung Quốc cả nghìn năm. Chuyện này chẳng
khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước nghìn năm trước Trung
Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa
có công dạy dân ta làm ruộng.
2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc:
Người
ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch
đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc
chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem
Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là
những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp,
văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các
nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu
biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Quốc
muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích
dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân
thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ
trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ.
Tên tám quẻ đơn Càn,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là
tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa
nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn
không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không
có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ
Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là
Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là
La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của
hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói
là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa
(La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả
ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như
vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung
Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng
nghĩa của nó.
3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu
một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt
Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch.
Đồ tượng
và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch.
Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc
Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng
tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng
dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng
nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong
kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong
thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là
do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng
danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ
sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên
Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai nghìn năm
nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung
Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay,
rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên
Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết
điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta
để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất
để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ,
một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời
hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh
Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai nghìn năm đã được trưng ra ánh
sáng.
Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung
Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ
Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ
Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam.
Đây
chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người
Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là
Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có
một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình
thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc
tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung
Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung
Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên
hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con
người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý:
a) Con
người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho
bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải
thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc
dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và
vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly
âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch
âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả
thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội
nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải -
trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông
Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn
dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ
bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống
cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức
ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận
(Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu
Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả.
Con người siêu lý
b)
Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí
công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự
sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung
Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới
lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là
Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ
Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn
(tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là
quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo
thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt
Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên.
Con người đạo lý
c)
Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm
linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi
(Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm
Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba
thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm
âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu
con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ
Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài
(Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng
quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn
(Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật
giáo).
4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết
Kinh
Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là
cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn
gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là
lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng
là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng.
Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc).
Khi tám quẻ
đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt
trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được
người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế
ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương
vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên
Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam
sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các
thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt
Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ.
Truyền
thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân
tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu
thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin
về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta
bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của
Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng
ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long
Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được
một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch,
Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp
đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân
thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long
Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác
Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ
Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn
sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là
đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh
dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức
đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có
thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long
Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người,
chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói
chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh
(quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một
vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc
Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là
quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính
cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm
(Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và
năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn
nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên
nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng
là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con
trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn -
Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ
truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly -
Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ.
5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch:
a)
Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh,
32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch
trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm
Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu
kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng
bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và
Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là
hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí
quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm,
quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng
nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và
Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly
Hoả tạo thành.
Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các
quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân
ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi
một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch,
vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người
là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều
hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật.
b)
Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải
thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13
"Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên
hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh
thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy
thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch.
Có lẽ vì người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ
đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên
không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn
mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư
trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập
với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái
toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội
cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng
nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở
mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như
nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía
Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên
nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng
Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu
chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài
sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình
công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô
tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng
đẳng công phu.
c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có
thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ
nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung
Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy
để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi
chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây
Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông
Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu
Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng
Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích
như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến
chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ
cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam
thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó
khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn
sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở
phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch
giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi
về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc
tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải
tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể
vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr
907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào
vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải
như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển,
hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại
thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng
phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là
nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc
nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về
núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt
nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người
khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con
người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được
giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông,
Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền
chặc).
Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở
vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn
ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại
là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó
không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ
có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa
quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam,
bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường
sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các
kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An -
Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược
với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.
Trong khi đó lời hào ba
quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam,
Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến
phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương
Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng
ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh,
đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là
lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia
nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi.
6/ Kết luận:
Chúng
ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn
bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người
Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn
chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải
trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ
giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế
ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó
Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ
cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn
Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta
nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu
được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền
núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch
chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu
lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích
của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong
nhiều quẻ Dịch.
Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên
Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến.
Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ
nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn
giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được.
Trung
Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ
tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ.
Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn
được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả
bài này sẽ công bố sau.
Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để
kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch
chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá
Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt
Nam.
Sách tham khảo
* Vũ Quỳnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Văn học, Hà Nội, 1990.
* Nguyễn Hoàng Phương: Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai, Giáo Dục, Hà Nội, 1995.
* Trương Thiện Văn: Từ Điển Chu Dịch, bản dịch, Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1997.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Một phát hiện mới về Kinh Dịch: Trung Thiên Đồ,Thông tin khoa học ĐH DL Duy Tân tháng 05/1999
* Nguyễn Thiếu Dũng: Con đường Tây Nam, Thông tin khoa học Đại Học DL Duy Tân, tháng11/1999.
*
Nguyễn Thiếu Dũng: Chúng ta có một di sản hàng đầu thế giới Báo Lao
Động, Trang miền Trung & Tây Nguyên số 32/99, ngày 13/12/1999.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Văn Lang cội nguồn Kinh Dịch, Khoa học & phát triển số 67, năm 2000.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Những con số ở vùng đất Tổ, Xưa & Nay,73b, tháng 03/2000.
* Hồ Trung Tú: Dịch học sáng tạo của người Việt cổ, Tia Sáng, Xuân Nhâm Ngọ 2000.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Nhìn qua chữ số, Khoa học & phát triển số 74, tháng 3/01.
* Hà Văn Tấn: Theo dấu các văn hoá cổ, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1998.
Nguyễn Thiếu Dũng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét